Đúng vậy, Võ tiên sinh là người ẩn dật, không làm quan với cả Tây Sơn lẫn chúa Nguyễn. Ẩn dật với chính quyền - bất kể chính quyền nào cả Tây Sơn lẫn chúa Nguyễn- mà không ẩn dật với xã hội: tiên sinh đã mở trường dạy bảo hàng trăm học sinh, nhiều người đỗ đạt làm quan lớn, nhiều người chỉ học để sống có đạo lý. Song tất cả đều là hào khí Đồng Nai. Hào khí ấy, được tiên sinh hun đúc cho người đương thời và còn tồn tại mãi về sau.
Gia Định tam gia là 3 nhà văn thơ rất nổi tiếng ở cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX đều là học trò của Võ tiên sinh, gồm có: Trịnh Hoài Đức, Lê Quang Định, Ngô Nhơn Tĩnh. Thơ văn của 3 nhà thơ này đã in thành sách Gia Định tam gia thi tập còn truyền đến nay. Nhóm thi văn tao đàn Hội Sơn xưa ở Sài Gòn cũng từng theo học Võ tiên sinh, họ là: Chỉ Sơn Trịnh Hoài Đức, Hối Sơn Hoàng Ngọc Uẩn, Nhữ Sơn Ngôn Nhơn Tĩnh, Kỳ Sơn Diệp Minh Phụng...
Nếu Trịnh Hoài Đức làm "chủ soái" Gia Định tam gia và Hội Sơn thì Ngô Nhơn Tĩnh lại đứng đầu Bình Dương thi xã nổi danh phong nhã. Tĩnh là người "viết đẹp, vẽ tài" nhất đương thời. Học trò của Võ Trường Toản không phân biệt người Việt hay Minh Hương, trong số này nổi danh hơn cả là Trịnh Hoài Đức gốc Phước Kiến và Ngô Nhơn Tĩnh gốc Quảng Đông.
Họ là bọn xuất sĩ, không chỉ làm thơ văn yêu nước, mến cảnh Sài Gòn, mà còn đem tài năng ra thi thố lập được nhiều công danh, như Ngô Tùng Châu từng làm sư phó dạy Hoàng tử Cảnh, Trịnh Hoài Đức làm thượng thư bộ Lại kiêm bộ Binh, Lê Quang Định làm thượng thư bộ Hộ kiêm quản Khâm thiên giám, Ngô Nhơn Tĩnh làm thượng thư bộ Công lãnh chức Hiệp trấn thành Gia Định... Họ cũng cầm đầu ngành ngoại giao: Năm 1801, chánh sứ Trịnh Hoài Đức cùng hai phó sứ Ngô Nhơn Tĩnh và Hoàng Ngọc Ẩn đi sứ Trung Quốc để báo tin thắng thế; năm 1802, chánh sứ Lê Quang Định cũng đi Trung Quốc để cầu phong và xin đổi quốc hiệu (bỏ tên An Nam, lấy tên Nam Việt, nhưng vua Thanh chỉ nhận đổi là Việt Nam); năm 1807, chánh sứ Ngô Nhơn Tĩnh đi La Bích để phong vương cho vua Chân Lạp. Ngoài ra, họ còn trước tác các công trình "khoa học sử địa": Trịnh Hoài Đức với Gia Định thành thông chí, Lê Quang Định với Đại Việt thống nhất dư địa chí, Ngô Nhơn Tĩnh (và chủ biên Bùi Dương Lịch) với Nghệ An phong thổ ký. Ở thời điểm này, phi những học trò của Võ Trường Toản đã thấm nhuần nền giáo dục "thật chất, có thuật nghiệp uyên thâm, thông đạt", khó ai thực hiện được những công trình khoa học và bác học ấy.
Thế nên, "từ những học trò đỗ cao, quan sang (ấy) cho đến những người như Nguyễn Đình Chiểu, Huỳnh Mẫn Đạt, Phan Văn Trị (có thể kể thêm Hồ Huấn Nghiệp, Bùi Hữu Nghĩa, Trương Định, Nguyễn Hữu Huân, Học Lạc...) sở dĩ đã giữ tròn tiết tháo khi nước nhà bị xâm lăng, đều là người có chịu ảnh hưởng của cụ". Lúc 3 tỉnh miền Đông Nam Kỳ mất vào tay Pháp, nhóm sĩ phu Phan Thanh Giản (cũng gốc Minh Hương), Nguyễn Thông, Phạm Hữu Chánh, Võ Gia Hội, Trương Ngọc Lang liền lo việc dựng mộ bia và di chuyển hài cốt Võ tiên sinh từ làng Hòa Hưng (Chí Hòa nay) về làng Bảo Thạnh (tỉnh Bến Tre) nơi quê hương Phan Thanh Giản. Nhưng lúc bia đang dựng thì thực dân Pháp đã chiếm nốt 3 tỉnh miền Tây Nam Kỳ. Trên mộ bia ở Hòa Hưng cũng như ở Bảo Thạnh, vẫn luôn có huy hiệu khắc trên đá Gia Định xử sĩ Sùng đức Võ tiên sinh do chúa Nguyễn Ánh truy tặng. Đây là xử sĩ có công đầu trong sự nghiệp kiến tạo hào khí Đồng Nai, nơi có "nhiều người trung dũng khí tiết, trọng nghĩa khinh tài, dù hàng phụ nữ cũng thế".
Sách tặng miễn phí - tài liệu khảo cứu của VTT Nguyễn Tuấn Khanh - xuất bản năm 2008 tại Hoa kỳ