Xin kính mời Thầy Cô và quí bạn thưởng thức hình ảnh và câu chuyện ‘Món Quà Mùa Giáng Sinh #1’ .
(Posting and anotating by VTT Trần Bình Chánh - 1961-1968)
VTT Đoàn Kiến Nam, 66-73
Để khỏi mất thì giờ quí báu của quí Thầy Cô và quí bạn, chúng tôi xin để hình trước và nếu thích thì đọc thêm bài viết của Đoàn Kiến Nam sau khi xem hình. Xin cám ơn
Hình 1: Em bé trai người Sê Đăng đem nải chuối đến để đổi lấy gạo
Hình 2: 2 bà mẹ người Sê-Đăng, Sơ Hường thuộc dòng Saint Paul và Ngọc Dzung thuộc Hội HopeToday (bìa phải, áo tím, đen). Mổi gia đình còn được từ 50,000 – 100,000 đồng ( 3 USD – 5 USD)
Hình 3: Đồng bào dân tộc rất khí khái, không xin gạo nhưng đem trái cây, củi, và những đồ thủ công nghệ… để đổi lấy gạo. Sơ Hường phải đem chuối phân phối cho các nhà dòng khác.
Hình 4: Kho bầu, bí, khoai, sắn…
Hình 5: Kho quần áo cũ để phát cho ngưòi dân tộc
Hình 6: VTT Đoàn Kiến Nam nằm giữa kho quần áo cũ
Hình 7: 2 bé Tuấn và Tài phải lặn lội từ 4 gìờ sáng để đến đổi gạo cho gia đình
Hình 8: Bé Liên (ngồi bìa trái) có nụ cười thât rộng, tuy chậm lớn nhưng đã học lớp 5
Hình 9: Người dân tộc (xưa gọi là người Thượng) đang ngồi chờ lảnh gạo và VTT Đoàn Kiến Nam
Hình 10: Em bé trai người Sê-Đăng đã lảnh gạo và VTT Đoàn Kiến Nam
Hình 11: Các bao bầu, bí, trái cây được ghi chú để đem phân phát lại cho các nhà dòng
Hình 12: Với cái gù trên vai, Đoàn Kiến Nam chụp hình với mẹ con người Sê-Đê
Hình 13: Cứu trợ tại Chumerong, sắp hàng nhận quà cứu trợ
Hình 14: Xe chở gạo, mì gói, và các đồ dùng thiết yếu đến địa điểm phát quà cứu trợ
Hình 15: Em bé trai người Sê Đăng kéo phần quà của mình.
Hình 16: Phong cảnh phát quà cứu trợ - Ngọc Dzung là ngươì mặc áo xanh dương
Hình 17: Đếm lại quà cứu trợ: 1 bao gạo 10 kilogram, 1 kg Cá khô, 1 kg đừơng, 200 gr, hai túi bột ngọt, ½ lít dầu ăn, 600 gr. xà bông, ½ kg muối, 1 thùng mì 30 góí. v.v…
Hình 18: Những bao gạo đã vơi, những người cuối hàng vào lảnh quà cứu trợ
Hình 19: Những phần quà cứu trợ cuối cùng
Hình 20: Bà cụ kéo bao quà cứu trợ lên con dốc
Hình 21: Em bé trai người dân tộc vác bao quà vừa lảnh vế nhà
Hình 22: Cả một khu đồi vang tiếng nói, cười của đoàn người với niềm vui là gia đình sẻ có đủ ăn trong vài tuần.
Hình 23: Chất quà vào xe để chở đi Hon Hring ngày mai
Hình 24: Tình cờ bắt gặp được một em bé đang bị khuyết tật ở chân
Hình 24: Có tấm lòng từ bi nào giúp bé thoát khỏi cái chân voi quái ác nầy không?
MÓN QUÀ MÙA GIÁNG SINH
From:
Dzung Doan (ngocdzungdoan@hotmail.com)
Sent: Tue 12/08/09 7:39 PM
Hello all,
Dzung và Nam tới Kontum được 2 ngày. Hôm qua đã lên Tumorong phát quà cứu trợ. Hôm nay ở lại thành phố, sửa soạn đồ cứu trợ để ngày mai lên Hon Hring phát thêm 300 phần quà nữa. Hai đứa tá túc trong tu viện St Paul của Sơ Hường. Ngày nào cũng có mấy chục người đàn bà và trẻ em dân tộc đem chuối, bí, rau, củi ..tới đổi gạo. Sơ nói mấy người nầy tới đúng lúc, may mắn vì tụi nấy cho mổi người 100,000 đồng. Sơ nói mình cho nhiếu, nhưng mà nghe chuyện họ ăn bửa có bửa không, mấy ông chồng dân tộc thì khi làm khi không, không giúp được gì còn uống rượu, về nhà phá nhà, phá của. Nhiếu gia đình góa chồng, và các em mồ cội cả bố lẩn mẹ, tội nghiệp lắm.
Gửi các bạn bài tường trình chuyến đi...Chưa kịp viết về chuyến đi Tumorong hôm qua vì hôm qua về mệt quá, không thức khuya để viết được..Khi nào viết xong sẽ gửi tiếp.
Nam
---------------
ĐƯỜNG ĐI CỨU LỤT
Chợt tỉnh giấc trong bóng đêm dầy đặc, tôi dần dần nhận thức khung cảnh quanh mình. Thành phố Kon-Tum về đêm êm ả như nhà quê. Trời gần về sáng, một vài tiếng gà gáy xen giữa tiếng dế kêu đều. Thỉnh thoảng, tiếng ồn của một chiếc xe máy từ xa vang đến gần, rồi lại chìm vào thinh không tĩnh mịch. Nằm yên cố dỗ giấc ngủ trở lại nhưng không được vì những hình ảnh của những ngày qua cứ lẩn vẩn mãi trong đầu. Bắt đầu là cảnh 4 chiếc va-ly nằm giữa đống quần áo, đồ đạc lỉnh kỉnh nằm ngổn ngang trên sàn chiếc phòng ngủ trống trơ ở nhà cô con gái mà tôi đã trưng dụng để soạn nhặt, sắp xếp những thứ cần thiết phải mang theo trong chuyến đi này. Một tuần lễ ở Seattle qua quá nhanh, quà cáp, đồ đạc mua, góp từ mấy tháng trước cộng với một chiếc thùng lớn chứa đầy những thứ chúng tôi thâu nhặt khi Ba tôi di chuyển chỗ ở về sống với người em gái sau đám tang của Mẹ tôi. Thêm vào đó là 2 thùng quần áo của một anh bạn gửi đến. Biết chúng tôi sắp về VN, bạn bè ai cũng muốn gửi gấm ít nhiều thứ giúp những người nghèo chúng tôi sẽ gặp trong chuyến đi, tôi phải từ chối nhiều mặc dù tất cả những thứ cần thiết cho chính mình, tôi và Dzung đã xếp vào 2 túi xách tay. Cả 4 chiếc va-ly to kềnh đều đầy ắp những quà cáp, quần áo, thuốc bổ ... để phân phát trong những chuyến đi từ thiện.
Hai ngày ở Hà Nội đã kéo dài thành ba, bởi vì một sơ xuất nhỏ. Nhưng đó là một dịp may vì nhờ có môt chút thì giờ trống để vào trung tâm Hà Nội mua đôi sang-đan thay thế đôi cũ mới bị con chó cắn nát, chúng tôi may mắn gặp lại một người bạn đã giúp chúng tôi trong chuyến đi VN hai năm trước ở miền nam. Thật là tình cờ, ai ngờ đi dọc dãy chợ ở ngay khu phố cổ, mua thử vài miếng chả rươi thì cái người khách đang đứng mua lại là Hoàng Anh. Cô ra bắc cũng vào ngày chúng tôi đến Hà Nội. Cô cũng ra phi trường đón người quen. Chỉ khác là chúng tôi đi chuyến đêm, người nhà cô đi chuyến ngày. Mất dịp đó để rồi lại gặp ở giữa phố xá đông đúc. Hai người đều từ xa gặp nhau giữa mấy triệu người, rồi lại có thể giúp được nhau trong công tác từ thiện thì đúng là do trời dun rủi. Nghe chúng tôi kể chuyện mổ mắt, Hoàng Anh nói có người bạn cùng trong ngành Y, nếu chưa đi du học thì có thể giúp chúng tôi tổ chức mổ mắt ở Sài-Gòn, thậm chí có thể về các tỉnh miền tây nữa. Mong sao mấy ngày sắp tới sẽ nghe tin tốt từ Hoàng Anh sau khi liên lạc lại với Sài-Gòn.
Chuyện đi chỗ nào trước, chỗ nào sau, bằng máy bay hay xe khách (đò) cũng là đề tài sôi nổi. Dzung nghĩ đi máy bay nhanh và an toàn hơn. Tôi thì lại nghĩ khác. Cảnh sửa soạn, chờ chực ở phi trường, rồi lại phải lo đi từ phi trường về thành phố. Hơn nữa máy bay chỉ có thể đến những thành phố chính. Muốn đi về Phú Yên thì gần nhất là bay đến Nha Trang, rồi vòng lại Tuy Hòa bằng xe. Nghĩ đến chuyện kiếm xe từ phi trường Nha Trang về thành phố, rồi chờ đợi ở bến xe đi Tuy Hòa, tôi thà đi xe đò từ Hà Nội, ghé nơi nào mình cần, hay là thẳng vào Tuy Hòa cũng chỉ một chuyến xe thì dù thời gian có dài, cũng vẫn hơn. Cuối cùng chúng tôi đồng ý chọn một chuyến xe giường nằm đi Huế. Rời Hà Nội lúc 4 giờ chiều, chúng tôi đến Huế lúc 5 giờ sáng. Một chuyến xe ôm chở 3, không mũ, nón ngắn ngủi thả chúng tôi vào tiệm bún bò nổi tiếng ở đường Lý Thường Kiệt, cách tu viện Saint Paul của sơ Lựu có vài trăm thước. Chúng tôi ăn uống ngồi nghỉ xong rồi mới cuốc bộ tới gặp soeur Lựu. Soeur lúc nào cũng chuẩn bị ngăn nắp. Tuy không báo trước, soeur đã có sẵn những danh sách các em học sinh ký nhận học bổng cho chúng tôi. Với kinh nghiệm từ những chuyến đi trước, tôi chỉ chụp hình những tờ giấy này rồi trả lại cho soeur. Đi lang thang như chúng tôi mà cầm theo giấy tờ lỉnh kỉnh thì không thất lạc, chúng cũng ướt hay rách mất.
Trao tiền học bổng học kỳ 2, niên khóa 2009-2010 cho soeur xong, chúng tôi chưa đi ngay được vì còn phải đợi cậu Giáp. Soeur Lựu dẫn 2 đứa tôi đi thăm khu vườn trẻ nơi các soeur trông gần 200 đứa trẻ nhỏ từ 3 đến 5 tuổi mỗi ngày. Chúng tôi đến nhằm ngày thứ bẩy nên thưa thớt hơn, gần 8 giờ sáng mà các lớp học trống trải, mỗi lớp có chừng 5, 7 đứa ngồi trên những chiếc ghế nhỏ vây quanh vài chiếc bàn thấp. mấy đứa lơn lớn thì tự xúc ăn lấy, còn mấy đứa bé thì ngồi nhai nhóp nhép đợi cô giáo xúc cho từng muỗng một. Dzung nhìn thấy cảnh này thì ngứa mắt nói với soeur: -“Bên Mỹ con làm việc nhiều với nhà giữ trẻ. Họ không đút cho các em đâu. Tới giờ ăn, mỗi đứa ngồi trên chiếc ghế cao. thức ăn để trên khay nhựa trước mặt cho các em tự ăn lấy. Mới đầu thì vung vãi, nhưng lâu rồi quen, các em ăn sạch sẽ chả đổ đi đâu chút nào ...” Soeur Lựu nói: - “Ở nước ngoài họ tập các em từ nhỏ, chả trách chúng nó có tinh thần tự lập sớm ...”
Đi một vòng thăm vườn trẻ xong mà cậu Giáp vẫn chưa đến, chúng tôi nói chuyện với soeur thêm về những chương trình xã hội soeur đang làm. Soeur cho xem nhiều danh sách những người già neo đơn, bệnh tật ở các vùng quanh thành phố Huế và xin chúng tôi giúp đỡ. Tôi đọc hai trang giấy dầy đặc tên những em nhỏ cần được trợ giúp để được vào học xem những tên thật đẹp như Cẩm Thủy, Thúy Phượng, Quốc Bảo, Đại Dương ... Cha mẹ các em chắc đã đặt biết bao kỳ vọng khi nghĩ ra những chữ văn hoa như thế. Nhưng đời các em sẽ ra sao nếu con đường học vấn chỉ là cái ngõ cụt ở cái tuổi lên 5, lên 6. Tôi thông cảm với sự lo lắng và nỗi niềm lo âu của những người cha, người mẹ ngày ngày lao động kiếm ăn mà bất lực trước viễn ảnh tăm tối cho những đứa con, những kỳ vọng của mình vào thế hệ mai sau. Nhưng biết làm thế nào được. Hai năm nay, trong khung cảnh suy thoái kinh tế toàn cầu, tiền quyên được từ ân nhân gửi về hội đã giảm rõ rệt, chúng tôi không thể nhận thêm trách nhiệm lâu dài. (Số tiền chúng tôi xin cho chuyến đi hàng năm thì có chiều gia tăng nhưng vì là tiền cứu trợ trực tiếp xin cho từng chuyến đi không dùng vào những nhu cầu lâu dài như trợ cấp cho người già, người bệnh tật, hoặc học bổng cho trẻ em).
Nhìn ánh mắt thất vọng của soeur khi nghe Dzung giải thích, tôi thấy xốn xang lắm. Tôi ngồi xem những danh sách của soeur: Danh sách các hộ nghèo vạn đò bờ sông Hương; Danh sách hộ nghèo, neo đơn, tàn tật tại gia Ngô Quyền, Thiên An, Phú Nhuận và vùng ven Huế; Danh sách bại liệt tại gia, neo đơn, bệnh tật Huế; Danh sách các hộ bờ hồ khó khăn Phan Đăng Lưu ... Soeur đã đi thăm từng nhà với những lời an ủi, cho từng người chút hy vọng sẽ tìm được sự giúp đỡ. Vâng tôi biết là soeur thông hiểu nỗi khó khăn của chúng tôi khi phải từ chối, nhưng sự thất vọng của soeur đâu phải là cho riêng soeur, mà là cho từng khuôn mặt khổ đau, từng hoàn cảnh khó khăn gom góp, tích tụ trong mỗi cái tên, mỗi dòng chữ trong những tờ danh sách đó. Tôi cũng đã từng đi bao nhiêu nơi, đã từng cho những người nghèo chút an ủi, chút hy vọng. Tôi hiểu vì cũng đã từng làm những danh sách, góp nhặt những hình ảnh thống khổ trong biết bao địa phương mà tôi đã đi qua vài năm gần đây ... Những hình ảnh, danh sách ấy còn ám ảnh tôi nhiều. Nhiều lúc tôi thấy mình bất lực không sao truyền đạt được những nỗi đau tôi đã mục kích ấy đến với mọi người. Tôi nghĩ, giá người ta có được những cảm xúc như mình, thấu được nỗi đau khôn cùng của những người cùng đường kia, thì nào còn ai phải đối chuyện gây quỹ cứu vớt người nghèo của mình. Tuy họ không phải là anh em, là người thân, nhưng lẽ nào người ta có thể gạt bỏ qua bên như không hiện hữu. Những người đã phản đối kêu gọi mọi người không giúp chúng tôi đó, họ có làm như vậy với con chó, con mèo họ nuôi trong nhà khi chúng đau yếu, hoạn nạn cần giúp đỡ hay không? Ai mà chẳng có lương tâm, chẳng qua bởi cái góc nhìn của lương tâm bị che mờ, bị lệch lạc mà người ta mới thốt được những lời vô tâm như vậy.
SOEUR LỰU
Gặp soeur Lựu đã mấy lần. Được soeur tin tưởng để trao đổi những danh sách người neo đơn bệnh tật, những gia đình vì kinh tế mà bắt con bỏ học. Đi với soeur vào khu Vạn Đò tồi tàn bên bờ sông Hương, nhìn người đàn bé bé nhỏ này đi giữa đám con nít bu quanh như muốn giành giật cái bao kẹp soeur đang cầm trong tay mà vẫn không nao núng, vẫn từ tốn bắt chúng xếp hàng có quy củ tôi nghĩ đến hình ảnh một bà soeur khác. Một bà soeur người Ấn đã là bực thánh trong mắt biết bao nhiêu người trên thế giới. Đúng vậy, tôi đang nghĩ đến bà soeur Theresa mà khi nói đến ai cũng phải nghiêng mình nể phục. Tôi biết soeur Lựu không có cái lưu loát khi ăn nói, cái suy nghĩ chính xác với những câu nói mà người nghe không quên được như bà Theresa. Nhưng tấm lòng của soeur Lựu đối với những người nghèo khổ thì không kém phần to tát.
Từ nhiều năm nay, hội HopeToday chúng tôi giúp soeur phần học bổng cho những trẻ em sống trên những con đò nằm bên bờ sông Hương này. Phải hiểu là Vạt Đò Sông Hương bao gồm nhiều khu vực. Gia đình của những trẻ em mà soeur Lựu giúp không phải là dẫy đò nằm cạnh những con phố lớn, mà ở sâu bên trong những kiệt (hẻm, ngách). Trong số này, một ít đã rời bỏ những con thuyền mục nát để dựng chòi trên bãi thủy triều hàng năm lâm vào cảnh lụt lội trong mùa lũ. Với số tiền chúng tôi trợ cấp, soeur Lựu cố gắng giúp tất cả trẻ em có cơ hội học tập. Những em phải làm lụng giúp đỡ gia đình thì soeur tổ chức thuê phòng học và mướn thầy cô dậy các lớp học ban đêm. Khi chúng tôi nói quy luật của hội chỉ giúp mỗi gia đình một em thì soeur bảo không nỡ cho các em khác phải bỏ học. Mấy năm nay, khi chúng tôi phải bớt phần quỹ gửi đến soeur vì số em xin học bổng tăng nhiều soeur vẫn không nhận cái quy chế chỉ cho mỗi gia đình một em. Soeur cố gắng xin thêm trợ giúp ở những nơi khác để bù vào, nhưng khi có khi không. Sự cố gắng không ngừng của soeur thật đáng kính phục.
Năm nay cũng như những năm khác. Soeur cho chúng tôi xem những tờ giấy đánh máy dầy đặc những danh sách người nghèo khổ chưa được giúp đỡ. Khó khăn trong việc xin quỹ không làm soeur sờn lòng, lúc nào cũng sẵn sàng đi thăm những vùng nghèo khổ tìm hiểu, lập danh sách rồi gặp cơ hội là soeur xin. Nói chuyện với soeur một lát tôi thán phục tấm lòng quảng đại của soeur. Mỗi một dòng, một tên người trong danh sách của soeur là một thí dụ của một cuộc sống bần hàn, của một sự cố gắng để có một cuộc sống tạm bợ trong muôn ngàn nỗi khó khăn đang ngăn cản họ. Soeur hầu như biết rõ hoàn cảnh của từng người, từng gia đình để thuật lại cho tôi nghe câu chuyện của họ. Càng nói chuyện với soeur, tôi càng thấy sự bất lực của mình. Nhu cầu những người nghèo ở VN thì đầy. Những người có lòng như soeur, những người nghe được câu chuyện thương tâm của họ như chúng tôi chỉ có thể cảm thông với những khó đau họ gánh chịu mà có giúp được gì. Biết được những khó khăn đó mà không nản lòng, sẵn sàng ghi nhận, tìm hiểu để tìm sự giúp đỡ bằng những cố gắng không ngừng, luôn luôn tìn vào một sức mạnh vô hình từ Thượng Đế sẽ không bỏ sót những con chiên của ngài là những thứ tôi cảm phục ở soeur Lựu.
Cậu Giáp chở chúng tôi từ chỗ Soeur Lựu đến nhà dòng Con Đức Mẹ Đi Viếng ở tận bãi dâu. Qua cầu Tràng Tiền, chợ Đông Ba, hết con đường Chi Lăng rồi mới đến Bãi Dâu. Ở đây, chúng tôi trao cho soeur Lệ số tiền học bổng do chính soeur, soeur Lợi, và cậu Giáp phụ trách. Danh sách của Soeur Lệ bao gồm các em ở quanh nhà dòng, Cậu Giáp lo cho các em ở thôn Thủ Lễ gần phá Tam Giang, còn soeur Lợi giúp các em sống ở ven bờ thành gần đường Đào Duy Từ. Hơn chục nóc nhà ở đây là những túp lều tạm bợ che lợp bằng tôn mục, bằng bạt, hay cạc-tông. Tôi đã có lần viết về những gia đình căng lều bất hợp pháp trên cái bờ ven con hào quanh thành nội dơ bẩn này rồi. Nhưng mỗi lần nói đến khu xóm bờ thành Đào Duy Từ, hình ảnh con mèo đói nhặt từng hạt cơm rơi của đứa trẻ con bưng chiếc chén với mấy hạt cơm chan nước canh lõng bõng từ ký ức lại hiện về. Những nơi như vậy tôi muốn trở lại thăm lắm, nhưng mấy tháng ở VN tuy nghe qua là dài, mà thật sự thì phải tranh thủ cật lực mới đủ làm những chuyện cần làm. Việc đi thăm lại những nơi mình đã đến và có chương trình giúp đỡ rồi không thể là điều quan trọng.
Ra đến bến xe phía nam Huế, Dzung thất vọng khi người ta nói chiếc xe đi Kon Tum chỉ có 15 chỗ. Dzung hạch cô bán vé: “Bảng hiệu viết xe cao cấp mà, có xe khác không?” thì nghe cô trả lời đây là chiếc xe duy nhất đi Kon Tum rồi nói tiếp theo “Xe cao cấp mà, thoải mái lắm”. Tôi nói với Dzung, xe cao cấp gì đâu loại bus nhỏ 15 chỗ này, nhưng mà dài dòng làm gì? Mình đâu còn sự lựa chọn nào khác. Vé xe mỗi ghế là 150 ngàn bao gồm tiền ăn tối thì cũng không mắc.
Khoảng cách từ Huế vào Kon Tum hơn 400 km, xe tới đó lúc đêm khuya nên họ đưa mình tới tận nhà hay tới chỗ nào đó có thể đón xe đi tiếp nếu nhà ở ngoài thành phố. Khi dừng ở tiệm ăn giữa đường, mình không thích ăn tối thì họ hoàn lại 25 ngàn. Trên đường đi, anh tài xế giải thích với khách hàng là giá vé sắp tăng vì xăng dầu ngày càng mắc mỏ thêm. Tết cũng gần đến, mọi phương tiện lưu thông đều tăng giá. Năm nay không tăng bao nhiêu thì chưa biết nhưng chắc vé vào tết sẽ không dưới 200 ngàn, vì giá cả dịp tết so với thường nhật mỗi năm tăng thêm khoảng 50 phần trăm.
Chiếc xe Ford 15 chỗ thì ghế ngồi cũng nhỏ, hàng ghế lại sát nhau nên phải khó khăn mới nhét được 2 cái túi xách xuống dưới gầm ghế trước mặt. May mà nó lọt chứ không thì không biết chân để vào đâu. Xui xẻo cho chủ xe mà may cho chúng tôi, dọc đường xe chỉ đón thêm được một anh sinh viên về thăm nhà ngoài 4 người khách gồm 2 bố con, 2 cô sinh viên và 2 đứa chúng tôi. Đi một chặng, Dzung ra băng trống phía sau nằm nhưng chắc cũng không thoải mái gì. Vào đến Đà Nẵng, xe vào phía núi đi con đường mòn HCMinh. Con đường sau mấy mùa mưa bão có nhiều đoạn bị sạt lở và xe chở gỗ nghiền nát nên không êm như nhung (lời anh lái xe) lúc mới hoàn thành. Đoạn không sóc thì quanh co, ngoằn nghèo hết ngoặt bên nọ lại bên kia. Đi ban đêm, sương mù có lúc dầy đặc xe phải đi rất chậm bác tài mới biết đâu là đường, đâu là vực, đâu là những tảng đá, đống đất to bằng nửa chiếc xe từ sườn đồi sạt xuống nằm chiếm gần cả nửa lòng đường vốn đã hẹp và không có chút lề nào. Qua một khúc quanh giữa vùng đồi núi hoang, 2 con bò và một con bê đủng đỉnh băng ngang qua đường. Bác tài phải thắng gấp. Bố con ông lão ngồi phía trên nói chuyện với nhau, bò nhà ai mà để đi hoang giữa vùng núi hoang vắng. Ở trên này chứ gần phố xá sầm uất thì vài bữa không mất bò thì bê cũng chẳng biết tìm ở đâu. Xe đi qua Đắc Tô một đoạn thì anh lơ xe bảo tôi gọi Dzung dậy chuẩn bị gọi điện để khi đến có người mở cổng. Người lái và phụ trên chiếc xe hiệu Quốc Toàn này rất tử tế. Họ chở mình đến nơi, đợi cho khách đã gặp người thân từ trong hẻm ra, hay đợi đến lúc cổng đã mở, người thân đã nhận ra nhau rồi mới rồ xe đi. Lúc xe đi được nửa đường, họ còn thắng gấp cho một cô sinh viên đang đứng đợi ở ven đường lên quá giang một đoạn mà không hỏi tiền thù lao gì cả. Lên xe rồi, tôi nghe họ hỏi cô sinh viên kia nếu không đón được xe thì cô làm gì giữa đêm khuya ở giữa vùng đồi núi hoang vu. Cô nói là cái bác đã cho cô đi nhờ một đoạn biết là giờ đó còn vài chiếc xe đi qua, và hẹn nếu lát nữa xong việc sẽ trở lại và giúp cô tìm chỗ trú nếu cô còn lạc lõng giữa đường. Về VN mấy lần rồi, những tấm lòng hảo tâm này tôi chưa thấy khi ngang dọc đi lại ở thành thị hay vùng đồng bằng sầm uất. Phải chăng chỉ có ở những vùng hoang vu, những vùng cao, vùng xa, nơi sinh sống của nhiều sắc dân thiểu số chất phác và đơn sơ thì mới còn nhiều tình người. Tôi không muốn nghĩ là người ta càng gần văn minh tiến bộ, càng hư hỏng. Nhưng biết giải thích thế nào với những điều mắt thấy tai nghe, những kinh nghiệm giả dối, điêu ngoa thường thấy ở các bến xe chốn thành thị. Nghĩ mà càng thêm buồn.
ĐỔI GẠO
Tính tình người dân tộc chất phác nhưng khí khái. Tuy sống thiếu thốn nhưng nếu chưa cấp bách thì họ không bao giờ xin. Mà nếu phải xin thì họ cũng muốn có thứ gì cho mình lại để trao đổi chứ không muốn nhận không. Tập tục này tôi đã gặp khi tiếp xúc người Tày, người Dao, người Dáy, người Mường ở Bắc Kạn. Lần này lên Tây Nguyên, tôi lại một lần nữa mục kích tận mắt.
Ở nhà dòng St. Paul của sơ Hường, chúng tôi chúng tôi được hưởng trọn cái phòng ngủ của khách trong đó kê hơn chục chiếc giường san sát. Hai chiếc cuối phòng đã được trưng dụng để xếp một đống bao bì lớn mà chúng tôi tưởng là bao quần áo. Mãi đến sáng hôm sau, khi nói chuyện với soeur thì tôi mới biết đó là đống mùng, mền. Quần áo thì các soeur có cả một kho ở phía dẫy nhà bếp ở phía đối diện. Trời vừa hừng sáng, nghe tiếng động đậy ở phía ngoài, tôi vừa bước ra cửa thì thấy 2 mẹ con một chị người dân tộc khệ nệ bưng hai chiếc bao đựng vài nải chuối xanh. Cô bé nhỏ gặp tôi thì nhoẻn chiếc miệng rộng gần tới 2 mang tai cười. Nhìn cô bé nhỏ nhắc tôi nghĩ chắc chỉ độ 7, hoặc 8 tuổi là cùng. Ai ngờ sau khi biết tên cô là Liên, và thấy cô nói tiếng Việt rất sõi tôi hỏi “Liên có đi học không?” thì cô nói “Có, con học lớp 5”. Giật mình tôi hỏi thêm thì biết Liên 12 tuổi. Hỏi tiếp thì tôi mới biết Liên và mẹ đi nhờ xe từ 5 giờ sáng đem mấy nải chuối đến đây để đổi gạo.
Trong vòng nửa tiếng, hai hàng ghế ngoài hàng hiên bên ngoài phòng ngủ của tôi không còn một chỗ trống. Hai anh em A Tài và Tuấn đi bộ từ 4 giờ sáng giờ mới tới đây cũng mang theo vài nải chuối. Ba mẹ con bé Liễu cũng vậy. Rồi bé Liên, bé Hòa ... ai cũng mang theo chuối, bí xuống đổi gạo. Ra trò chuyện với họ môt lát, Dzung vào phòng rồi ra phát cho mỗi nhóm gia đình $50,000. Lúc đó tôi chưa biết về tục đổi gạo (xin) này của những người Sê-Đăng này. Tôi chỉ thấy những nải chuối có khi còn quá nhỏ, quá xanh của họ thì thấy uổng. Tôi chưa biết họ không có gì để đổi, đến chỉ để xin thì họ “ngại”. Từ sáng đến trưa, hết tốp người này đến “đổi” xong thì tốp khác lại vào. Soeur Hường nói những người đến hôm nay hên được gặp “cha” Nam và “seour” Dzung. Tôi nói đùa, tôi cũng là cha của ba đứa trẻ nên gọi là cha cũng được, nhưng gọi Dzung là bà “seour” thì không được đâu ... Nghe họ kể chuyện ruộng vườn bị cơn bão vừa qua tàn phá hết, rồi nghe soeur Hường nói lúc này số người xuống “đổi” đã vơi vơi rồi ... Số hoa quả, rau, củ nhặt nhạnh được sau cơn bão không còn bao nhiêu nữa, mà lúa gạo, rau màu mới ương lại thì còn lâu mới thâu hoạch được. Tôi bàn với Dzung là ai đến cũng giúp họ một ít tiền. Những năm trước chúng tôi bỏ lỡ những cơ hội gặp gỡ như vầy rồi thấy hối tiếc về sau.
Phần lớn những người nhận quà thì vui, nhưng thỉnh thoảng có người xúc động ra mặt. Lần đầu tiên việc ấy xẩy ra làm chúng tôi cảm động không cưỡng được lòng mình nên tăng số tiền cho mỗi gia đình từ 50,000 lên 100,000. Lần đó, khi Dzung cho tiền hai chị em người Ban-Na, bà chị vịn vào cả 2 vai của Dzung rồi quay mặt ra bên cố che đi những giọt nước mắt đang muốn thoát ra khỏi đôi mắt long lanh. Dzung và tôi ngạc nhiên nên an ủi là số tiền có là gì mà phải khóc thì cô ta nói bằng giọng run run: -“Nhà mấy hôm hết đồ ăn rồi, trẻ con nó đói ...” rồi như sợ chúng tôi không hiểu, cô nói thêm: “mưa bão lớn quá, đồ ăn, rau quả trôi, ruộng ngập hết ...”
Tiếp tục hỏi thăm 2 chị em, tôi được biết người chị có 3 đứa con mà một đã qua đời, người em nói có hai đứa, rồi ngừng lại một chút, cô nói thêm với giọng buồn rầu: -“Cả 2 đứa con trai, không có con gái như chị đây.” Lúc đó tôi đoán lý do cô buồn không phải chỉ là vì thích con gái, nhưng còn liên quan đến tập tục mẫu hệ của người miền cao. Vì vậy nên khi ăn trưa, tôi hỏi soeur Hường và anh Lưu thì mới biết là các sắc dân Thượng cả thảy đều theo mẫu hệ. Đối với họ, chưa có con gái thì cũng như người mình chưa có con trai để nối dõi tông đường.
Ở VN, đâu cũng có người đói khổ. Chúng tôi muốn đem số tiền ít ỏi đến với những người cần nó nhất. Lúc chưa về VN, qua tin tức trên mạng, chúng tôi được biết vùng Phú Yên bị thiệt hại nặng nề. Về đến VN rồi, mới hay là hầu hết những quà cứu trợ từ trong và ngoài nước đều dồn về đây. Liên lạc với người ở địa phương, họ cho hay rằng gạo, mì ... nói chung là những nhu yếu phẩm cấp cứu chống đói thì không thiếu nữa. Họ muốn chúng tôi dồn nỗ lực vào công việc tái thiết. Một người nói mình chưa dám tin, nhưng rồi 2,rồi 3. Cả người ở Phú Yên đã từng giúp chúng tôi mang những gói quà đầu tiên đến những nạn nhân ngay sau cơn bão cũng đều một ý tưởng.
Chúng tôi đi cứu trợ ở đâu? Điều này tùy thuộc vào sự hiểu biết của mình về hoàn cảnh của những địa phương và vào việc mình có tìm được những người tin cẩn được ở địa phương để giúp mình thực hiện công tác hay không. Về đến Kon-Tum, tôi nghe phong phanh là cơn bão số 9 đã xóa sổ nhiều làng mạc. Có làng chẳng còn gì, người, nhà cửa, gia súc chôn sâu trong bùn đất không gì sống sót. Một vài nơi cả tháng sau cơn bão có vài người lặn lội tìm ra được khỏi vùng lũ lụt, sạt lở. Một vài vùng sâu, vì lãnh đạo toàn là người dân tộc không có nhiều liên hệ ra ngoài nên chịu nhiều thiệt hại mà ít có người biết đến để giúp. Còn ở đây ít là vài ngày nữa, tôi sẽ nghe ngóng, tìm hiểu thêm. Nếu thật sự như vậy thì cũng là một bài học để mình thận trọng, cân nhắc khi sử dụng đồng tiền cứu trợ.
Tôi vừa viết đến đây thì Dzung vào. Nãy giờ bàn chuyện mua đồ cứu trợ với Soeur Hường và anh Lưu (cháu của Soeur). Anh Lưu đề nghị chúng tôi giúp trại cùi ở đây mỗi gia đình người cùi một phần quà. Mua luôn một lúc, rồi sắp xếp phân phát cho họ sau cũng được. Dzung tính sơ sơ, 221 phần, tổng cộng hết 1,700 USD. Tôi nói với Dzung ra hỏi Soeur xem những người này gần đây có ai giúp đỡ chưa? Trong tương lai thì sao? Nếu không ai giúp thì mình cố thêm để cho họ một ít. Số tiền chúng tôi xin được tuy nhìn vào thì nhiều, nhưng nếu giúp Kon Tum tổng cộng gần 5,000 USD thì cũng vơi đi nhiều, nhất là sau khi kể phí tổn của 3 đợt mổ mắt trên dưới hết 20,000 USD. Tuy vậy, đã lên tới đây, có người giúp mình đến với những đối tượng khổ đau, cùng cực mà không giúp thì lương tâm cũng áy náy. Tôi nói với Dzung tuy mình cũng muốn phân phát cho mỗi nơi một ít, nhưng cũng không nên bỏ lỡ cơ hội với những người cùi, vốn đã bị thiệt thòi quá nhiều.
Dzung ra nói chuyện với soeur Hường một hồi lâu rồi trở lại nói với tôi là soeur Hường thật ra cũng đã có chương trình tuy không rộng rãi lắm nhưng cũng đều đặn giúp đỡ những người cùi này hàng tháng. Nhận thấy sự dè dặt của chúng tôi, soeur đề nghị chúng tôi bảo trợ chương trình giúp họ có một bữa ăn, và một ít quà vào dịp tết. (Soeur Hường nói số người hàng năm đến ăn khoảng 500 người.) Chúng tôi hứa sẽ cố gắng trở lại và ứng trước cho soeur số tiền dùng vào việc này nhưng soeur không nhận. Soeur nói chúng tôi cần số tiền đó đi cứu lụt đã, khi gần tết thì liên lạc với soeur rồi trở về đây lo liệu. Soeur sẽ chờ chúng tôi để có dịp giới thiệu cho chúng tôi biết người dân tộc ăn tết như thế nào. Thế là chúng tôi đã tìm cho mình một nơi để sống những ngày tết hào hứng ở Tây Nguyên. Để biết một ít phong tục của những người Sê-Đăng, Người Ba-Nan, người Ra-Đê mà tôi vừa gặp hôm nay, và có lẽ còn nhiều sắc dân thiểu số sinh sống ở vùng Tây Nguyên mà nay mai tôi sẽ có dịp biết đến.
Soeur Hường kể cho tôi nghe
một câu chuyện “đổi chác” rất cảm động như sau:
Một buổi tối đã khuya, khoảng 10 giờ đêm. Một em nhỏ xách con gà nhỏ bé từ trong buôn ra “đổi” gạo. Em nói nhà hết gạo ăn đã 2 hôm . Mấy đứa em nhỏ đói nên khóc lăn, khóc lóc. Mẹ em sai mang con gà nhỏ xuống gặp soeur Hường đổi gạo. Soeur nhìn con gà bé teo đã chết dí vì bị thằng bé sách lăn lóc khi nhanh chóng vượt đường rừng ban đêm. -“Tôi cho nó 5 ký gạo vì nó chỉ xách được chừng đó ... rồi nhìn con gà nhỏ như con chim, tôi bảo nó đem về cho mẹ nấu cháo cho các em ăn”. Soeur ngừng một lát nghĩ ngợi rồi nói tiếp: -“Canh khuya, nhìn thằng bé đi vào bóng đêm tôi thấy lo cho nó về đến nhà an toàn mà không biết làm gì hơn là để cho nó đi. Soeur Hường nói thêm. Tôi già rồi. Đau yếu thường xuyên. Tôi chết rồi không biết ai đứng ra mà lo cho họ nữa. Cái khổ truyền đời không biết bao giờ mới hết. Sinh ra trong cảnh khổ, chết cũng trong cảnh ấy mà còn phải nhìn con, cháu mình không có lối thoát. Biết làm sao được.” Soeur nói đến đây giọng chùng lại ... còn tôi thì cố giữ giọt nước mắt chực rớm ướt. Tôi nghe lời soeur mà không giám nói gì, sợ bộc lộ nguồn cảm xúc đang dâng trào trong lòng.
Phần lớn ai nấy đến đổi cũng đem chuối, hoặc bí. Thỉnh thoảng có người mang rau. Nhiều chuối và bí quá, soeur Hường trở thành nạn nhân. Chuối xanh, bầu, bí chất đầy 2 gian nhà kho không thể nào ăn hết phải chở từng xe Van đem cho các nhà Dòng, nhà thờ từ Đà Nẵng tới Saìgon. Seour nói Anh Lưu mới chở một xe Van đầy đi Saigon và vừa về tới chiều qua. Chuối chín nếu có nắng đem phơi, tẩm gừng và mè rồi bỏ bao đem bán, nếu không có nắng nhiều khi chuối thối phải vứt đi.
Viết đến đây, tôi nghĩ đến những người hết sức lo cho tha nhân như soeur Lựu, soeur Hường. Các soeur phải cố gắng tranh đấu với chính quyền địa phương để mang được những phần quà nhỏ nhoi của bao nhiêu tấm lòng từ xa xôi hướng về những mảnh đời cùng cực, bất hạnh nhất. Tôi nghĩ đến những bài viết bạn tôi gửi đến chỉ trích những người như chúng tôi “ăn cơm nhà, vác ngà voi” hy vọng đem đến một chút sự an ủi, sự giúp đỡ nhỏ nhoi để qua cơn đói, cơn đau. Những bài viết tôi đã nhiều lần muốn trả lời rồi lại thôi. Có người nói với tôi là phải ăn miếng trả miếng với nhà báo đã đăng những bài như vậy. Những bài báo xuyên tạc đầy những chi tiết không thật như tiền quyên được chỉ làm béo bở cho đám tham nhũng mà không đến với những nạn nhân cần được giúp. Những người ủng hộ chúng tôi còn nói thêm: - “Phải vạch mặt, kiểm duyệt, bài trừ những lời lẽ xuyên tạc đó”. Nhưng tôi không nghĩ như vậy. Mình may mắn thoát khỏi ngục tù cộng sản, đến được xứ tự do thì phải tôn trọng mọi quyền tự do. Ai muốn nghĩ sao, nói sao cũng được. Quan trọng là việc giáo dục quần chúng. Mong cho con cháu mình trong xã hội được có cái học vấn để biết đúng, biết sai. Mong góp sức để cùng làm bộc lộ cái trắng, cái đen của mọi vấn đề. Sự thật, lẽ phải bao giờ cũng trường tồn. Những thủ đoạn xuyên tạc, che mắt thiên hạ qua thời gian không bao giờ tồn tại mãi được.
CHƯƠNG TRÌNH TRONG NHỮNG NGÀY TỚI
Thứ hai ngày 7 tháng 12 năm 2009: Đi phát quà ở Tumorong. Khởi hành lúc sáng sớm lên đến Tumoron lúc 9 giờ. Chiều về anh Lưu định ghé thăm một vài nơi. Chúng tôi nghe nói những nơi này thiệt hại rất nặng và it được giúp đỡ. Nếu phù hợp chúng tôi sẽ liên lạc mua đồ cứu trợ ngay chiều mai để ngày mốt đi tiếp.
Thứ ba, thứ tư ... có thể tiếp tục cứu trợ ở Kon-Tum ... hay sửa soạn xuống Gia-Lai nơi chúng tôi đã sắp xếp vào thăm một xóm cách An-Khê chừng 30km.
Chúng tôi có chừng 10,000 USD có thể dùng cứu trợ lũ lụt. Chương trình đi Tumorong tiêu hết chừng $3,000.00 USD. 300 phần, mỗi phần $200,000 VND gồm 10 kg Gạo, 1 kg Cá khô, 1 kg đừơng, 200 gr, hai túi bột ngọt, ½ lít dầu ăn, 600 gr. xà bông, ½ kg muối, 1 thùng mỳ 30 góí. Hết quỹ sớm thì sẽ dong duổi về bắc sớm, ghé vài nơi trên đường vè. Bằng không thì chỉ cần tốc hành về tới Hà Nội để kịp đi mổ mắt ở Ninh Bình vào hai ngày 20-21, tháng 12.