THÀNH KÍNH TƯỞNG NIỆM
- Nhóm Cựu Giáo Sư trường Trung Học Võ Trường Toản Sàigòn
- Ban Liên Lạc Cựu Học Sinh Võ Trường Toản Sàigon, Việt Nam
- Hội Ái Hữu Cựu Học Sinh Võ Trường Toản Vùng Hoa Thịnh Đốn
- Hội Ái Hữu Cựu Học Sinh Võ Trường Toản tại Philadelphia, Pennsylvania
- Hội Ái Hữu Cựu Học Sinh Võ Trường Toản, Bắc California
- Hội Ái Hữu Cựu Học Sinh Võ Trường Toản, Nam California
- Nhóm Cựu Giáo Sư và Cựu Học Sinh Võ Trường Toản, Úc Châu
- Nhóm Cựu Giáo Sư và Cựu Học Sinh Võ Trường Toản, Canada
- Nhóm Cựu Giáo Sư và Cựu Học Sinh VTT tại Âu Châu
- Nhóm Cựu Giáo Sư và Cựu Học Sinh Võ Trường Toản tại Texas
HỘI ÁI HỮU CỰU HỌC SINH VÕ TRƯỜNG TOẢN
TIỂU SỬ CỦA NHÀ VĂN, NHÀ GIÁO, NHÀ BÁO, CHIẾN HỮU VNCH NGUYỄN KIM DŨNG BÚT HIỆU THẾ UYÊN
Tiểu sử
Nhà văn Thế Uyên tên thật là Nguyễn Kim Dũng, sinh năm 1935 tại làng Yên Phụ, Hà Nội. Ông là con trai của ông Nguyễn Kim Hoàn (quản lý cơ sở xuất bản Ngày Nay - Đời Nay) và bà Nguyễn Thị Thế (em gái của Nhất Linh, Hoàng Đạo và là chị của Thạch Lam), em trai nhà văn Duy Lam. Ông là giáo sư Trung học, chủ trương nhóm văn hóa Thái Độ và nhà xuất bản Thái Độ. Ngoài sách sáng tác, ông còn biên soạn bộ sách giáo khoa quốc văn từ lớp 6 đến lớp 9 và dịch một số sách nước ngoài.
Ông mất ngày 11/6/2013 tại Seattle, tiểu bang Washington, Hoa Kỳ, hưởng thọ 79 tuổi.
Tác phẩm
- Những Hạt Cát (truyện ngắn, 1964)
- Mưa Trong Sương (1964)
- Ngoài Ðêm (truyện ngắn, 1965)
- Mười Ngày Phép Của Một Người Lính (đoản văn, 1965)
- Nỗi Chết Không Rời (truyện ngắn, viết chung với Duy Lam, 1966)
- Những Ý Nghĩ Của Bọt Biển (đoản văn, 1966)
- Tiền Ðồn (truyện dài, 1967)
- Nghĩ Trong Một Xã Hội Tan Rã (tiểu luận, 1967)
- Bản Tình Ca (truyện ngắn, 1968)
- Chiến Tranh Cách Mạng (tiểu luận)
- Những Người Đã Qua (đoản văn)
- Căn nhà của mẹ (đoản văn)
- Sài gòn sau 12 năm (hồi ký)
- Về miền đất hứa - Thế Uyên dịch, Thanh Bình xb lần thứ nhất 1973
- Con Ðường Qua Mùa Ðông
- Nghĩ Trong Mùa Xuân (1992)
- Tuyển tập truyện ngắn Thế Uyên
- Tuyển tập Dâm Tình Và Các Nhà Văn Nữ Hoa Kỳ
- Khu Vườn Mùa Mưa
- Những Người Mỹ Chung Quanh Chúng Ta
- Không một vòng hoa cho người chiến bại (truyện dài, 1998)
|
EULOGY
ĐIẾU VĂN của nhà văn NGUYỄN TƯỜNG THIẾT
Cháu Di,
Mấy hôm trước, ngay sau ngày bố cháu mất, cháu có nói với chú: “Chú Thiết ơi! Cháu muốn chú nói đôi lời về bố cháu trong ngày tang lễ bố cháu”. Chú đã phân vân. Không phải là chú ngại điều chi. Lời mời của cháu là một vinh dự cho chú. Chú phân vân vì chú đang suy nghĩ: “Mình không biết nên nói về bố thằng Di với tư cách một người họ hàng rất gần, hay nên nói về bố nó như một người bạn rất thân”. Chú phân vân vì cả hai đều đúng và đều nặng ký như nhau.
Về vai vế trong họ thì chú là hàng anh, nhưng về tuổi tác thì chú thua bố cháu những 5 tuổi. Hơn nữa, bố cháu từ xưa chơi thân với anh Thạch của chú, nên chú luôn luôn xem bố như một người anh. Chính trong cái tinh thần đó mà chú cảm thấy rất thoải mái khi các cháu gọi chú bằng cái tên thân thương “chú Thiết” trong khi các cháu gọi anh của chú là “bác Thạch”.
Hôm nay trên đường lái xe đi thăm bố cháu, trên xa lộ I-5 hướng về phía bắc, lúc đến exit 183 chú đã lỏng chân ga, toan rẽ vào Bothell thăm bố như thói quen đã có từ mười năm nay, nhưng chú lại nhấn ga đi thẳng để vào exit 192, vì chú chợt nghĩ ra là bố cháu đã thay đổi địa chỉ, bố cháu đã có một chỗ ở mới, một chỗ ở tuy vĩnh viễn nhưng chắc là chú sẽ không ghi vào trong sổ địa chỉ của chú đâu, vì đó là nghĩa trang Evergreen, thuộc thành phố Everett.
Trên đường lái xe chú đã nghĩ đến không biết bao nhiêu những địa chỉ, những căn nhà mà bố cháu đã ở và chú đã đến thăm, từ cái ngày rất xa xưa ở Hà Nội khi mẹ của bố cháu còn ở chung nhà với chú Thạch Lam bên hồ Tây của Hà Nội. Từ căn nhà ấy đến đến căn nhà sau cùng bố cháu ở này là chiều dài 78 năm của một đời người.
Trong lúc lái xe tự nhiên một tiếng nói bên trong bảo với chú rằng: bố cháu mong muốn ngày hôm nay và mai hậu chú sẽ nghĩ, sẽ nói, và sẽ tưởng nhớ đến bố cháu như một người bạn văn, một cố tri, hơn là một người anh họ, bởi vì tình bạn giữa bố cháu và chú nó thâm sâu hơn tình họ hàng, máu mủ.
Tình bạn ấy không phải một sớm một chiều mà có được. Nó có được là do cái cơ duyên hãn hữu này: năm 1987 bố cháu và gia đình đã chọn tiểu bang Washington để định cư, tiểu bang mà gia đình chú đã chọn làm quê hương thứ hai từ năm 1975. Như là nhan đề một cuốn sách nổi tiếng của Leon Uris mà bố cháu đã dịch ra tiếng Việt, khi bố cháu chọn “về miền đất hứa” này, bố cháu đã là người duy nhất trong họ nhà ta định cư ở tiểu bang Washington, ngoài chú. Và chính vì sự gần gũi nhau trong suốt 26 năm trường mà hai người anh em họ đã trở nên đôi bạn tri kỷ. Ngoại trừ khoảng thời gian 12 năm sau biến cố 1975, khi bố cháu ở lại Việt Nam, khi chú định cư ở Hoa Kỳ, thì trong suốt cuộc đời bố cháu và chú đã luôn luôn ở bên cạnh nhau, tính ra trên 60 năm. Đây là một điều rất quí báu vì chưa chắc đã có những cặp vợ chồng, những người anh em ruột thịt có được một thời gian gần gũi lâu dài như thế.
Bố cháu và chú là những người viết văn nên thường ví đời người như một cuốn sách. Cuốn sách ấy dầy hay mỏng là tùy tuổi thọ của đời người. Xem ra thì cuốn sách đời của bố cháu dầy lắm, những 78 chương, nếu tính mỗi năm là một chương sách. Chú hân hạnh là đã được đi chung với bố cháu trong suốt hơn 60 chương của cuốn sách này. Bố cháu và chú chỉ “lạc” nhau từ chương 75 đến chương 87 của cuốn sách, khi bố cháu đi tù cải tạo và khắc khoải sống trong cuộc đổi đời, còn chú thì vật lộn với cuộc sống mới trong những năm đầu tha hương.
Cháu Di ơi,
Hôm nọ, trong lúc chú giúp cháu soạn bản cáo phó cho bố, chú đề nghị trên cáo phó chỉ đề tên Thế Uyên Nguyễn Kim Dũng là đủ. Nhưng cháu lại có ý kiến rất hay và rất đúng là thêm vào mấy chữ “nhà văn, nhà giáo”. Quả thật mấy tiếng đơn giản đó đã gói ghém tiểu sử của bố cháu.
Chú sẽ không dài dòng giới thiệu về nhà văn Thế Uyên hay nhà giáo Nguyễn Kim Dũng. Về văn nghiệp bố cháu đã cho ra đời 21 cuốn sách ở miền Nam trước 1975 và 10 cuốn sách ở hải ngoài, tổng cộng 31 cuốn thuộc đủ loại khác nhau: truyện, tuỳ bút, biên khảo, sách dịch và cả sách giáo khoa. Với chú, tên tuổi Thế Uyên đã nổi bật ngay trong truyện ngắn đầu tiên “Mưa trong sương” đăng trên nguyệt san Tân Phong năm 1959. Cái nhan đề “mưa trong sương” cực tả không khí lãng đãng sương mù của thành phố Đà Lạt, nó đã ám ảnh chú trong rất nhiều năm sau này, mỗi khi chú cùng bố cháu đi dạo chơi ở thành phố Olympia, ở Seattle, mà cảnh vật ở đây là phiên ảnh của một thành phố Đà Lạt năm xưa, với rất nhiều những ngày “mưa trong sương” như thế. Về nhà giáo, bố cháu tốt nghiệp Đại học Văn Khoa và Sư Phạm, trở thành giáo sư Việt văn dậy tại nhiều trường trung học công lập ở miền Nam.
Cả về văn nghiệp lẫn nghề giáo, bố cháu là người đi trước thiên hạ trong một số lãnh vực. Chẳng hạn như bố cháu là một trong số rất ít nhà văn tiền phong khi viết về vấn đề tình dục trong văn chương, một vấn đề mà trong thế kỷ 20 vừa qua dường như vào thời ấy người ta còn coi như cấm kỵ. Về nghề giáo, bố cháu là người tiền phong trong việc đổi mới sách giáo khoa môn Việt văn ở bậc trung học, là người đầu tiên và duy nhất đã soạn những mẫu văn từ các tác giả đương thời như Thanh Tâm Tuyền, Dương Nhiễm Mậu, Mai Thảo, Duy Lam, Thế Uyên thay vì trích các mẫu văn từ các tác phẩm thời tiền chiến, thời Tự Lực Văn Đoàn, như tất cả các sách giáo khoa Việt văn khác của thời ấy.
Về con người bố cháu là một người thẳng thắn. Đây là một đức tính quý báu. Tuy nhiên sự thẳng thắn nào cũng có cái giá phải trả. Là một người bình thường sự thẳng thắn chỉ đưa đến mất lòng của một số người. Nhưng là nhà văn thẳng thắn, thì đức tính ấy lại cần có thêm một đức tính nữa, đó là sự can đảm, và trong bao nhiêu năm trường sống bên cạnh bố cháu như một người bạn tri kỷ, chú đã nhìn thấy sự can đảm ấy trong con người bố cháu, trong sự chịu đựng rất lặng lẽ và hết sức cô đơn chống trọi với tất cả những ngộ nhận do kết quả của những gì bố cháu viết ra, cái can đảm của một nhà văn dám là mình, dám viết những điều mà bố cháu tin tưởng.
Ngay sau khi tin bố cháu mất được loan tải chú đã nhận được rất nhiều lời chia buồn từ khắp nơi trên thế giới, và lòng của chú dịu đi, khi nghĩ rằng đã có rất nhiều người cũng tin tưởng về những gì mà bố cháu đã tin tưởng, và đó là nguồn an ủi lớn lao cho một người đã cống hiến cả một đời cho nghiệp bút như bố cháu.
Hôm nay, ngày chủ nhật 16 tháng 6 năm 2013, ngày tiễn biệt bố cháu lại tình cờ rơi vào ngày “vinh danh bố” (Father Day).
* * *
Tôi xin được thay mặt chị Thúy Sơn và các cháu để ngỏ lời với với anh Thế Uyên. Tôi muốn nói với anh về cái tình của chị và của các cháu đối với anh trong suốt mấy tháng nay. Tôi đã chứng kiến chị hàng giờ vuốt ve bàn tay anh trong lúc anh nằm thiếp ngủ trên giường bệnh, tôi đã xúc động nhiều lần khi chị và các cháu ôm lấy vai tôi khóc. Tất cả những giọt nước mắt mà tôi chứng kiến bây giờ thật ra chỉ là phần nhỏ nhô lên của tảng băng thạch mà phần chìm của nó là những giọt nước mắt lặng lẽ mà vợ con anh đã và sẽ nhỏ xuống trong bóng đêm, bây giờ và mãi mãi mai sau.
Với tư cách người bạn tâm giao của anh Thế Uyên tôi cũng xin được nói với chị Thuý Sơn và các cháu như thế này: anh Thế Uyên thực tình không muốn nhìn thấy những cảnh như thế, anh ấy thiết tha mong muốn chị và các cháu sống vui, bởi vì “life is for the living” như anh ấy có lần nói với tôi.
Tôi xin kể một câu chuyện vui. Câu chuyện ghi dấu câu nói sau cùng của anh với tôi: Cách đây mấy tháng, sau khi bị “stroke” lần thứ hai, anh bị mất tiếng nói. Chúng tôi đến thăm anh ở viện phục hồi. Lúc này người ta đang tập cho anh nói, nhưng thường thì anh chỉ nói ú ớ rất khó nghe, chúng tôi phải nhờ chị Thuý Sơn thông ngôn mới hiểu được ý anh muốn nói gì. Một bữa kia có một bà Mỹ, cũng là bệnh nhân trong viện phục hồi, bà ta buồn nên đi khắp các phòng lê la hỏi chuyện. Sau khi đến phòng Thế Uyên bà ta nói líu lo vài lời rồi đi ra. Anh nhìn tôi nói mấy lần tôi mới hiểu: “bà ấy là ai?”. Tôi nói đùa với anh: “Bà ấy đến thăm ông đấy!”. Sợ anh không nghe được, chị Thúy Sơn phải ghé sát nói to bên tai anh. Thế Uyên hơi nhỏm dậy, có gắng phát âm: “Rất... tiếc... tiếc.. là bà ta... không... đẹp!”.
Đấy là lần cuối cùng tôi được nghe anh nói.
Nguyễn Tường Thiết
Evergreen Cemetery, Everett, ngày 16 tháng 6 năm 2013
|
Điếu Văn của nhà văn Nguyễn Tường Thiết
Kính mời quí vị đọc Điếu Văn trích từ website Diễn Đàn Thế Kỷ
Nhà văn Nguyễn Tường Thiết là con trai của nhà văn Nhất Linh Nguyển Tường Tam (nhóm Tự Lực Văn Đoàn)
Thầy Nguyễn Kim Dũng bút hiệu Thế Uyên qua đời - Người Việt Online
Kính mời quí vị xem tin tức về Thầy Nguyễn Kim Dũng bút hiệu Thế Uyên trên báo Người Việt
Kính mời quí vị xem bài viết về Thầy Nguyễn Kim Dũng bút hiệu Thế Uyên đăng trên mạng của đài VOA
Kính mời quí vị xem bài viết của Thầy Nguyễn Kim Dũng bút hiệu Thế Uyên - Thầy đã viết về thời gian được giải ngũ về dạy học tại Võ Trường Toản trong khoảng thời gian 1967-1970.
Bài viết mô tả cảm nghĩ của một nhà giáo làm nghề cầm phấn, cầm bút phải gác bút vào quân đội cầm súng, cầm dao đối diện với kẻ thù rồi sau đó gác súng trở lại bục gổ cầm phấn, cầm bút dạy học cho những em học sinh còn tuổi trong trắng ...
Đoạn đường chiến binh (2 )
Thế Uyên
Đoạn đường chiến binh
(Đoản văn)
Ông thầy tội nghiệp…
Tôi vào nghề dạy học cách đây đã lâu lắm, đến mười ba năm, và nhập nghề một cách rất giản dị, đúng “truyền thống” ngày xưa: nhà nghèo, thi rớt một năm, vậy thì đi làm thầy đồ trẻ lấy nghề gõ đầu trẻ làm kế sinh nhai học tiếp khoa sau. Không hề có vấn đề chọn hay chí hướng mô phạm dứt khoát cho cuộc đời của mình…
Bằng cấp ít, tuổi cũng quá ít, không thể có chuyện xin dạy ở Sài Gòn. Vậy một buổi sáng trong một mùa khai trường, tôi nhét vài cuốn truyện vào cặp, chân đi đôi giầy vải bà ngoại cho tiền mua, mặc cái quần kaki xanh mẹ mua xôn ở chợ trời, áo sơ mi trắng mượn của bố, tôi nhảy lên xe lửa đi xuống miền Nam kiếm nơi bán chữ sinh nhai. Không hiểu vì lý do gì nữa, tôi không nam tiến xa, dừng ngay ở bên này sông Cửu Long. Có lẽ một phần vì hiệu trưởng trường trung học mang tên vị danh sĩ mù nổi danh trong lịch sử miền Nam sẵn sàng thâu nhận, một phần có lẽ vì thành phố ven sông này tôi đã từng xuống nhiều lần vì những đôi mắt đẹp không dẫn tới đâu cả.
Hiệu trưởng, một người đã đứng tuổi, trịnh trọng gọi tôi bằng “ông”, rất nghiêm khắc nhưng cũng rất tử tế, đã hướng dẫn những bước đầu cho tôi trong nghề. Học trò đứng xếp hàng thật ngay ngắn, im lặng chờ thầy đến, cúi chào mà đầu cứ thấp xuống như kiểu chào của người Nhật. Đó là thời đại hoàng kim cuối cùng của nền giáo dục Việt Nam – nhưng vào năm ấy, tôi đâu có ý thức được, cứ tưởng như thế là tự nhiên và mọi sự sẽ mãi mãi là như thế. Đó cũng là thời kỳ hiệu trưởng yêu cầu giáo sư không được chấm bài trên xe lửa, không được mặc áo dài tay mà lại sắn lên, và dĩ nhiên áo phải mầu trắng, những phiên họp hội đồng giáo sư hàng tháng tổ chức trịnh trọng và trang nghiêm. Đó là thời kỳ những ông thầy đồ trẻ đi dạo chơi trong thành phố mắt cứ phải nhìn lên ngọn cây để bớt phải chào đáp lễ các học trò ở rải rác lúc nào cũng sẵn lòng kính cẩn cúi chào. Nhưng dù còn ít tuổi, tôi lúc đó cũng cảm thấy nghề dạy học có một cái gì trục trặc, giả trá, bất bình thường đâu đây. Chỉ cảm thấy như thế thôi, chưa tìm hiểu, ý thức rõ được.
Sau hai niên học, tôi xin thôi để trở về Sài Gòn học tiếp rồi một lần nữa, vì sinh kế, tôi lại xin đi dạy học – lần này phải đi thật xa, một phần vì các trường gần đã hết chỗ, một phần vì trong khi mài đũng quần mấy năm ở Văn khoa, tôi đã là một sinh viên có những hoạt động mà chính quyền đương thời tha cho không bắt cũng đã là khoan hồng. Tôi phải lên tít cao nguyên xa, một xứ nổi danh bùn muôn thuở về mùa mưa và bụi mù trời về mùa nắng. Nhưng rất nhanh, lệnh nhập ngũ đã tới và tôi rời lũ học trò nửa thượng nửa kinh, rời phấn rời bảng để đi vào cuộc chiến tranh mà từ trước tới giờ tôi chỉ là kẻ đứng bên lề.
Rời quân trường với tư cách bộ binh, trong có bốn năm quân vụ, tôi bảy lần đổi KBC, thay mười hai lần đơn vị. Vào thời kỳ đó, chưa có lệnh ấn định bốn năm cho về, ai đi lính đều tin chắc phen này sẽ đi như lời thơ của một người xưa: “Chàng Siêu mái tóc điểm sương mới về”. Bởi thế, tôi đã sống như một người lính đích thực, nghĩa là đổ mồ hôi, là lội bùn, băng rừng, khóc bạn, chôn bạn và dĩ nhiên là có cả giết người nữa – điều đó tất nhiên nếu không lính để làm gì… Những lúc rảnh rang, tôi đi nhậu nhẹt với đồng đội. Nhẹ ra thì ba giờ sáng rét cóng sờ vào nòng thép như muốn bỏng tay, đi tuần tiễu trở về, ông hạ sĩ già đã ngả một con gà không biết rõ xuất xứ cạnh mấy chai đế màu hổ phách. Và lúc đó thì thôi rũ sạch sương gió bùn lầy ở ngoài lều vải, cả bọn ngả nghiêng trong chén rượu cay, nói những thứ truyện lính tráng rất muôn thuở, nghĩa là rất tiếu lâm và trần truồng trắng trợn, để rồi tám giờ sáng ra chào cờ, đứng trước hàng quân nhìn ngọn cờ chưa lên quá nửa cột đã biến mất mà tự hỏi không hiểu sương mù sáng nay quá dày đặc hay mình quá say… Còn nặng ra thì như trường hợp có đồng đội nằm xuống hay đang tự hỏi mình chiến đấu cho ai, thì dăm ba thằng bạn cùng kéo ra thị trấn, quần áo còn dính máu và bụi hoặc tâm hồn nặng trĩu chán nản bơ vơ, vào một quán nào đó có gái hầu rượu và bia chảy như suối. Đóng cửa quán lại để tránh quân cảnh, uống cho tới tờ mờ sáng, chồng chất trên xe jeep, hát nghêu ngao như lũ cuồng mà về.
Còn gái. Tất nhiên phải có và có nhiều. Dù gái điếm hay gái nhà lành thì đều là một thứ repos du guerrier. So với nhiều bạn trong quân ngũ, tôi không hề là lính ba gai ba búa, nhưng ngả chiêu đãi viên ra bàn mà hôn trong quán rượu ồn ào và nhận chìm tất cả thân mình trong vòng tay những con gái cho thuê thân xác – có gì đáng nói về chuyện ấy nữa một khi lắm lúc lũ chúng tôi thấy phận mình nào có hơn gì, chẳng qua một thứ lê dương da vàng…
Thế rồi đến một ngày kia thời thế thay đổi, thiên hạ đếm đủ bốn năm quân vụ rồi cho tôi trở về. Về thì về. Do sự lười biếng của lính sau khi giải ngũ – phải vài ba tháng trở lên mới hoàn hồn… dân sự – guồng máy hành chính cứ quay nên một buổi sáng đẹp trời, tôi ngủ dậy chợt thấy mình lại là nhà giáo, ông thầy, nhà mô phạm ngay tại Sài Gòn. Vậy thì tôi lại lên bục cầm phấn mà chi hồ giả dã phen nữa.
Nhưng lần này rất nhanh, tôi thấy ngay là mọi sự không còn là như xưa, mọi sự đều trục trặc, hỗn loạn và giả trá. Tôi đứng trên bục mà cảm thấy đó không phải là vị trí của mình – tất cả chỉ còn là kịch, một thảm kịch.
Trước hết là về phía ông thầy, kẻ đứng trên bục gỗ mà rao giảng những điều hay lẽ phải cho lớp hậu sinh. Cuộc chiến tranh đã quá khủng khiếp, xã hội đang đi tới mức phân hoá tột cùng, tất cả với tôi là người trong cuộc. Tôi đã nhìn thấy nhiều sự thực, tôi đã ý thức được nhiều điều và đã lao mình vào cuộc tranh đấu nhằm xây dựng một xã hội mới tốt đẹp hơn. Vậy làm sao bây giờ đứng trên bục này, tôi có thể giảng cho đàn em những điều hay điều thiện mà chính tôi biết là không có và lỡ mà chúng lại tin theo thì lớn lên chúng sẽ nguyền rủa tôi là tên nói láo hay nặng hơn nữa, đồ xui trẻ ăn cứt gà. Tôi nói về dân chủ ư? Dân chủ nào. Tôi nói về tiết nghĩa ư? Tiết nghĩa nào. Tôi giảng đạo đức: các em không được rượu chè trai gái nghiện hút chăng? Tôi nói dối mất: tôi đã hút thuốc như điên, uống bia như hũ chìm và… chơi gái chín phương chỉ còn để mỗi một phương lấy vợ. Giá tôi cho tôi đã làm những điều đó là sai là xấu thì còn được, đằng này tôi không hề thấy những việc đó là xấu xa – tôi đâu có định xuống tóc vào chùa hay phát nguyện vào đại chủng viện để phải tiết dục.
Suy nghĩ nhiều hơn, tôi tìm thấy một trục trặc khác nữa. Đó là vấn đề quan niệm về vai trò, quyền hạn và trách nhiệm của ông thầy. Ngày xưa, trên là quân dưới là đến sư, còn phụ đứng mãi hàng thứ ba. Ông thầy được ủy nhiệm quyền dạy dỗ cho đứa trẻ thành người. Nghĩa là ông thầy chịu trách nhiệm về cả trí dục lẫn đức dục của hậu sinh, và được uỷ đủ quyền hạn cần thiết để hoàn tất trách nhiệm của mình: học trò ghẹo gái vô lễ cách trường 30 dặm, ông thầy mà biết, mười ngày sau cũng còn gọi ra xỉ vả hay đánh đòn. Đỗ có đến tiến sĩ, làm quan có đến nhất phẩm triều đình, về thăm thầy ở làng xưa nếu cần vẫn cứ phải xuống ngựa từ đầu làng và đứng mà hầu chuyện thầy đồ trong lều tranh xơ xác. Hơn nữa, chương trình giáo dục cổ xưa cũng nhằm theo chiều hướng như thế. Được trao quyền hạn và trách nhiệm lớn như vậy, và được đãi ngộ về cả tinh thần lẫn vật chất tương xứng, nếu ông thầy ngày xưa có phải tiết dục, phải tu thân tối đa để làm mô phạm, điều đó là hợp lý. Còn bây giờ, trên bục gỗ, ông thầy hiện đại được trao quyền hạn ra rao? Tôi dạy Quốc văn đệ tứ chẳng hạn, sáu giờ một tuần với một chương trình rõ rệt phải dạy cho đủ. Học trò kém Quốc văn, lỗi tại tôi. Còn nếu chúng kém về đạo đức, điều đó làm sao tôi lãnh trách nhiệm cho được. Ai trao cho tôi việc rèn luyện đạo lý cho học trò đâu. Không cần giàu tưởng tượng cho lắm cũng biết điều gì sẽ xảy ra cho tôi nếu trước là hiệu trưởng sau là cấp Bộ biết rằng giáo sư… đã bỏ bê chương trình Quốc văn để chỉ giảng đạo đức cho học trò. Tôi đã từng dạy Công dân giáo dục để biết rằng đây chỉ là môn giảng về bổn phận và quyền hạn của người công dân – nghĩa là nhằm đào tạo một người công dân thôi và một công dân tốt là người biết tôn trọng luật đi đường (chương trình lớp đệ lục), biết đóng thuế đầy đủ, biết thi hành nghĩa vụ quân dịch, biết mình có quyền ra ứng cử và bầu cử, biết vài kiến thức về kinh tế học… Và một công dân tốt, nghĩa là làm hết những trách vụ công dân đó, không hề đương nhiên là một người tốt, có đạo lý. Một kẻ lưu mạnh, khốn nạn nhất xét theo phương diện luân lý, vẫn có thể là một công dân tốt như thường – nhất là trong xã hội hiện đại.
Đó là về quyền hạn và trách nhiệm. Còn về đãi ngộ? Có thể nói ngay là tội nghiệp ông thầy. Trước hết là về phương diện tinh thần đã. Không những ông thầy không được xã hội dành cho một kính nể nào đáng kể so với các nghề khác hiện tại, ông thầy còn bị ngáng trở trong việc giảng huấn bởi chính các phụ huynh học sinh. Trong một bài giảng nào đó, ông thầy mở rộng nói về đạo đức lễ nghĩa cho học trò nghe, thì thường thường là chương trình của mình dám sẽ bị quạt bay theo gió hết khi học trò trở về nhà, mang lời giảng ở lớp ra nói, và phụ huynh phê bình rằng: Ối dào! Nghe mấy thằng thầy của mày thì có mà đói rã họng ra! Và tôi đám đánh cá rằng ngày mai đây, nếu có học trò nào hư, hỗn láo, tôi nóng tát tai cho một cái thì ba bảy hai mốt ngày là trễ nhất tôi sẽ gặp đủ rắc rối: phụ huynh sẽ nhẹ ra thì khiếu nại với hiệu trưởng, nặng ra thì kiện tới Bộ hoặc viết bài “tố cáo hành động dã man của con chiên ghẻ trong ngành giáo dục”. Xa lắm rồi cái thời học trò hư bị thầy đánh cho mấy roi đuổi về, ngày hôm sau đương sự, sau khi bị lãnh thêm một trận ở nhà, bị bố lôi đến trường bắt xin lỗi thầy.
Còn đãi ngộ về vật chất? Giáo chức lãnh lương như mọi công chức khác – phụ cấp sư phạm có năm trăm và tám trăm không nghĩa lý gì. Nghĩa là đói rách tối đa – một giáo sư trung học bây giờ nếu có lương tâm, chỉ dạy đúng số giờ ấn định thôi không dạy tư, thì người đó và vợ con chỉ có quyền ăn cơm ngày một bữa thôi, còn quần áo thì lấy lá chuối mà che thân – vị nào không tin là tôi nói nghiêm chỉnh, tôi sẵn lòng cung cấp bản chiết tính. Còn về phía xã hội, tôi xin trình bày lần đi coi thi Tú tài năm vừa qua, tại một tỉnh nổi tiếng trong văn học của miền Nam. Chẳng gì cũng là một giám khảo, bước chân vào trường, mỗi sư giáo được cấp phát cho một chiếc chiếu ly lông nhỏ (có sự tiến bộ vì trước kia là chiếu cói) và một cái chỉ tay về phía một hành lang. Các vị giáo sư cứ việc ra tay mà quét bụi, kê các bàn ghế lại lấy chỗ mà nằm. Kỳ thi thì dài mà trường không có nước tắm – có nước rửa mặt đánh răng đã là may lắm. Chăn chiếu mùng mền phải mang theo mà dùng. Ăn cơm thì tự túc, và suốt trong kỳ thi tôi nhận thấy chín phần mười đều chỉ dám ăn cơm đĩa, những đĩa cơm rất bé bỏng. Coi thi rất dễ khát nước và tôi cùng các bạn không biết làm sao hơn là chung nhau tiền thuê lao công nấu nước cho uống. Một tỉnh văn hoá của miền Nam mà không đãi nổi các giáo sư đến tỉnh mình coi thi một ly nước trà và không cấp gì hơn một chiếc chiếu ny lông… Có thể nói trong thời gian thi cử này, chỉ có các người lính đang đi hành quân của sư đoàn 7 và các giáo sư đi coi thi Tú tài mới phải nằm đất hít bụi mà thôi… Các ông thầy tội nghiệp, bởi vì mọi sự không phải chỉ có thế: coi thi nghiêm chỉnh quá, rất dễ được học trò địa phương tiễn đưa bằng vài trái đấm hay nhẹ ra, cũng vài lời chửi tục ngay trước mặt.
* * *
Mọi sự đến đây quả thực tôi không còn lý do gì để tiếp tục đeo đuổi nghề giáo. Chỉ riêng cái vị trí giả tạo, nguỵ trá mà xã hội tạo ra cho ông thầy, cũng đủ làm cho tôi mất thanh thản trong tâm hồn khi đứng trên bục gỗ rồi. Đơn xin thôi việc đã được chuẩn bị nhưng với Tết Mậu Thân, chiến tranh lại lôi tôi vào cuộc lần thứ hai và lần này, với tư cách giáo chức tái ngũ, tôi được sử dụng như một thứ huấn luyện viên quân sự lưu động trong đô thị, hết Sinh viên, Thanh niên trừ gian, lại đến Nhân dân tự vệ. Để rồi một buổi sáng nọ, thượng cấp chỉ thị cho các giáo chức tái ngũ được biết sẽ được biệt phái về nhiệm sở cũ “nếu có đơn xin”.
Tôi không làm cái “đơn xin” ấy. Tôi muốn thà ở lại các đơn vị huấn luyện quân sự học đường còn hơn. Ở đây tôi thoải mái, vị trí và trách nhiệm của tôi rõ ràng. Nếu làm huấn luyện viên, tôi chỉ trách nhiệm về môn tôi phụ trách, học viên khá về môn đó càng tốt, tôi lo cho đơn vị có kỷ luật, y phục chỉnh tề, so hàng đều, trình diện tốt. Ai bất tuân thì phạt. Còn các học viên của tôi có tham nhũng ngoài đời, có làm trò ma giáo, việc đó không liên quan gì đến tôi cả. Tôi có nhậu nhẹt, chơi bời vung vít, thì đó là việc riêng của tôi, các học viên không có lý do gì thắc mắc… Hoàn toàn là những điều, những tương quan, những vị trí, trách nhiệm mà chính thực ra phải là của ngành giáo dục bây giờ mới hợp lý.
Nhưng chẳng có đơn xin thì đừng, lệnh trên vẫn cứ truyền xuống và tôi đành cởi quân phục trở về trường cũ. Làm nhà binh, không có cãi, thi hành trước khiếu nại sau. Buổi sáng ngày khai trường năm đó, trong những giáo sư đang đứng trên hành lang nhìn xuống học trò dưới sân tấp nập, tôi hẳn là ông thầy rầu rĩ nhất. Và lời giảng đầu tiên của tôi ở những lớp học sinh đã lớn dĩ nhiên là rất bất thường. Trước hết tôi tự giới thiệu như khi đi huấn luyện quân sự, nghĩa là nói tên họ, cấp bậc và môn phụ trách giảng dạy. Rồi kế đó tôi trình bày cho học sinh hiểu tôi quan niệm ra sao về tương quan giữa người đứng trên bục và những kẻ ngồi dưới. Tôi nói cho họ hiểu nhà trường chỉ giữ họ có bốn tiếng một ngày và chỉ giảng dạy về phương diện trí dục, và cũng chỉ chịu trách nhiệm chính yếu có thế. Nếu có chút nào về rèn luyện đạo lý cho con người, thì đó chỉ là kỷ luật học đường: y phục đồng phục, bảng tên, không nói chuyện trong giờ học, không hỗn láo, không làm hư hại vách tường, học cụ… Một thứ kỷ luật không nghĩa lý gì so với kỷ luật quân đội và còn thật xa mới có thể gọi những thứ kỷ luật ấy là rèn luyện đạo lý con người. Sau khi xác định rõ tôi đứng trên bục chỉ là một huấn luyện viên phụ trách môn… và chỉ chịu trách nhiệm về môn ấy (… “các em sau này hư hỏng hay thành người, có chí khí liêm khiết hay tham nhũng, lường thầy phản bạn, thì đó là do thầy mẹ các em nhiều hơn là do nhà trường – nhà trường, qua tôi và tôi qua những bài văn chương trích giảng, chỉ mang lại cho các em những hướng dẫn gián tiếp và tuỳ nghi mà thôi”…), tôi xác định về vấn đề xưng hô thầy trò (… “tôi không phải là ông thầy hiểu theo nghĩa ngày xưa bởi vì thứ ông thầy đó không còn tồn tại trong xã hội này, và giả thử có còn ông thầy đó thì tôi cũng không đủ xứng đáng để nhận…”). Tôi nói rằng tục lệ dưới cái mái trường ấn định người đứng trên bục phải gọi là thầy và các người ngồi dưới là các em thì chúng ta tuân theo tục lệ ấy… Thế thôi. Tôi không phải là ông thầy thực sự hiểu theo nghĩa cổ xưa (nghĩa là một thứ người đã bị diệt chủng từ lâu lắm rồi trong nền văn hoá Việt Nam), bởi thế một khi rời khỏi cổng trường này, mỗi người cứ việc đi mỗi ngả, hết thầy hết trò. Ai làm gì cứ việc làm, không ai có trách nhiệm gì với ai ngoài đường phố rộng lớn kia hết. Và sau cùng, để kết luận cho phần mở đầu đầu năm ấy, đã có lần tôi chua chát nói: “Ra khỏi trường, do đó, tôi cấm các em không được chào tôi bằng thầy. Tôi đâu có được xã hội này trao quyền làm thầy. Nhận là nguỵ tín, là tiếm quyền. Và giả thử ngày nào vì cớ gì tôi được phép làm thầy thực sự, thì lúc đó tôi e rằng có hơi nhiều học trò sẽ bất xứng không đáng làm học trò của tôi”.
Nói giản dị, tôi đã khước từ danh vị “thầy” bởi vì nó không có và tôi là quá ngay thẳng để nhận xằng. Tôi lui về vai trò đúng của tôi trong ngành giáo dục hiện đại: một huấn luyện viên phụ trách giảng dạy về một môn học nào đó. Tôi đành phải làm như vậy vì nếu có một nguyên tắc nào cần tôn trọng nhất trong ngành giáo huấn, thì đó là sự “chính danh” như người xưa đã nói. Tôi đành phải lui về cho rõ rệt như thế mới có thể mà mỗi ngày đứng lên bục gỗ cao, mà cất bình tâm tiếng nói lên điều gì cho lớp hậu sinh. Dĩ nhiên sẽ có rất nhiều người sẽ không đồng ý với thái độ đó, nhưng làm thế nào được – tôi đâu có hề muốn như vậy.
Nguồn trích: Lá Bối in lần thứ nhất năm 1971, Sài Gòn – Việt Nam.
from: phamchi duong
date: Fri, Jun 14, 2013 at 2:51 PM
subject: NHỚ THƯƠNG THẦY NGUYỄN KIM DŨNG
Chào Anh Chị .
Đọc tin Thầy DŨNG mất trên web VTT em xúc động quá Anh , vì em nghĩ Đại Hội 2014 em sẻ qua thăm Thầy, vì Thầy để lại cho em nhiều kỷ niệm
khi Thầy còn đi dạy học, mà hình ảnh em nhớ nhứt là Thầy mặc bộ đồ kaki đứng trên bục giảng , nhờ Anh chuyển dùm em lời chia buồn đến với gia đình Thầy ,
PC Dưỡng
From: Thang Phung (thangphungduc@yahoo.com)
Sent: Mon 6/17/13 1:31 AM
Thành kính chia buồn với gia đình Thày .
nguyện cầu linh hồn Thày sớm tiêu diêu miền Cực lạc.
học trò Phùng đức Thắng và gia đình
From: Van Lam Thanh
Sent: Monday, June 17, 2013 8:16 AM
THÀNH KÍNH CẦU NGUYỆN CHO HƯƠNG HỒN THẦY SỚM SIÊU THOÁT !
Thầy thuộc gia tộc Nguyễn Tường ... . Học cải tạo chung trại với Hà Ngọc Được và có về VN !
Van q4
Nhớ thầy Thế Uyên Nguyễn Kim Dũng
Thầy Thế Uyên Nguyễn Kim Dũng thật độc đáo. Chúng tôi đã rất hào hứng khi được học văn với một văn sĩ nổi tiếng, lại là cháu của Thạch Lam, Nhất Linh…Thầy nghiêm trang và giản dị. Chúng tôi đã hoàn toàn bị cuốn hút vào những bài bình giảng văn, vốn thường không mấy hấp dẫn với đa số học trò ban toán.
Chúng tôi đọc những tác phẩm của Thế Uyên nhiều hơn, theo dõi tất cả những thông tin về Thế Uyên qua báo chí. Tất cả chỉ vì Thế Uyên đã là thầy của chúng tôi. Nhưng chúng tôi không có dịp gần gũi với thầy. Sư uyên bác và kín đáo của thầy cũng chính là xa cách. Một đôi lần chúng tôi có gặp thầy trong quán cà phê. Thầy đi với bạn. Chúng tôi tôn trọng sự riêng tư của thầy nên cũng chỉ kín đáo nhìn thầy từ xa. Cũng như trong lớp thôi. Chúng tôi không thể đến gần thầy, dù rất muốn.
Sau 1975, có một lần tôi tình cờ thấy thấy ở một quán cà phê ven đường. Tôi và thầy đã nhìn nhau. Đường đông xe. Khi tôi quay lại được thì thầy đã bỏ đi. Thật là hụt hẫng! Chiến tranh đã đi qua nhưng lòng người vẫn còn ly loạn. Thầy trò gặp nhau cũng chẳng thấy an tâm! Đó cũng chính là lần cuối cùng tôi nhìn thấy thầy. Sau đó chỉ còn qua những mẫu tin. Mẫu tin cuối cùng thì cũng mới đây thôi, email của một bạn cùng lớp cho biết thầy đã qua đời.
Được sống một cuộc đời như ý nguyện. Ra đi vào tuổi thượng thọ. Chắc thầy chẳng có gì hối tiếc. Dù sao chúng tôi cũng cầu mong có một thế giới khác để cho thầy đến, cầu mong thế giới đó tốt đẹp hơn thế giới này để thầy mãi mãi được thanh thản, an vui.
Trong ký ức của chúng tôi thầy vẫn còn nguyên vẹn. Chiếc áo sơ mi đã ngã màu, chiếc quần kaki vàng, nước da đen xạm của một người lính. Thầy rõ ràng là một nhà giáo trang nghiêm. Nhưng cũng rõ ràng là một nhà văn “bất cần đời”. Thầy vẫn đứng đó, rất ngay ngắn trên bục giảng, giọng nói vẫn trầm ấm và cuốn hút khi bình giảng thơ Nguyễn Công Trứ
Lúc vị ngộ hối tàng nơi bồng tất
Hiêu hiêu nhiên điếu vị canh sằn
VTT Lê Mạnh Đương
(12B2 – NK 63-70)
amc_pr@yahoo.com