Trường chiếm tầng giữa của tòa nhà. Gồm phòng hiệu trưởng, phòng giám thị và văn phòng. Ba lớp đệ thất chiếm ba phòng. Tất cả là 5,7 phòng gì đó. Số phòng còn lại để trống.
Tầng trệt là trường Sư phạm Nam Việt, chỉ còn hai hoặc ba lớp giáo sinh cả trai và gái. Khoảng cuối 1956, trường này dời về trường Quốc gia Sư phạm, cuối đường Thành Thái.
Tầng hai là trường của các học sinh khuyết thị. Họ nội trú, vừa học nghề vừa học văn hóa. Sau đó trường khuyết thị dời về địa điểm mới, ở ngã sáu đường Trần Hoàng Quân, đối diện Trung tâm dự bị đại học.
Tháng 2 năm 1956, do một nghị định của Bộ Quốc gia giáo dục, trường Trung học Võ Trường Toản được chính thức hóa. Rồi cứ thế, từng niên khóa, chúng tôi lên đệ lục thì có ba lớp đệ thất mới vào, phát triển đến tháng 4 năm 1975.
Chúng tôi ngày học hai buổi, sáng và luôn buổi chiều. Nhà tôi và một số bạn khác ở xa trường. Tôi ở với gia đình người chú, đường Nguyễn Kim thuộc cư xá Nguyễn Tri Phương. Buổi trưa, nghỉ học đợi giờ học chiều, tôi cùng vài bạn cùng lớp như Trần Tấn Vu Long ở nhà người cô đường Nguyễn Văn Thoại; Đặng Ngọc Ẩn ở gần chợ An Đông; La Văn Bé, Trương Gia Bình, Võ Quang Liêm ở Chợ Lớn; Trần Văn Cúc, Thành Bianchi ở Phú Lâm; Lê Văn Nở ở Gò Vấp ; Lê Văn Gương ở Thủ Đức v.v. còn nữa mà bây giờ tôi không còn nhớ. Ngoài ra còn nhiều các bạn khác ở hai lớp B,C lang thang trong sở thú hoặc làm bài, hoặc ôn bài , hoặc tán phét.
Chúng tôi mất hai người bạn trong năm đệ lục. Đó là Lê Văn Nở ở Gò Vấp. Nở mất do một chứng bệnh ngặt nghèo. Chúng tôi khoảng mười người, buổi trưa đạp xe lên nhà Nở thăm và chia buồn với gia đình Nở. Má Nở giở miếng giấy đắp mặt và khấn : « Nở à, dậy đi con, bạn tới thăm, sao con nằm hoài vậy … » Nước rãi từ miệng Nở trào ra. Chúng tôi ai cũng bùi ngùi. Người bạn thứ nhì chúng tôi mất là một bạn nhà ở quận Nhơn Trạch, bây giờ tôi đã quên tên. Cũng một buổi trưa, Chúng tôi khoảng mười người, tới bến Bạch Đằng, qua phà Thủ Thiêm, đạp xe xuống Cát Lái, qua một lần phà nữa, bên kia sông là quận Nhơn Trạch thuộc địa phận tỉnh Biên Hòa. Tiếp tục đạp xe quanh co trên những con đường làng hẹp đất đỏ, sau nhiều lần hỏi thăm, chúng tôi tới nhà bạn. Bạn bị ung thư máu. Ba má và gia đình bạn tiếp chúng tôi trong niềm đau buồn tử biệt một người con, một người thân.
Trong năm đệ lục, chúng tôi cũng chia tay vĩnh viễn với một giáo sư trẻ là thầy Tốt. Thầy có bà con với bạn Gương, cùng lớp với tôi. Thầy mất trong bệnh viện Grall, chứng ung thư máu. Anh của thầy, một bác sĩ ở Pháp về, ngậm ngùi bó tay trước căn bệnh ngặt nghèo của em mình.
Vị Hiệu trưởng đầu tiên là thầy Đinh Căn Nguyên. Ông đi chiếc Traction đen, miệng lúc nào cũng ngậm píp và nhóp nhép như nhai kẹo cao su. Sau đó là thầy Nguyễn Chí Thiệp. Giám thị là thầy Quách Văn Đặng, phụ tá là thầy Hải. Thầy Đặng và gia đình ngụ ngay sau trường, một nhà nhỏ trong bãi để xe đạp có cửa thông ra đường Nguyễn Du rợp bóng me. Chúng tôi được thụ giáo với các giáo sư : cô Khưu Thị Ngọc Sang Việt văn, thấy Trần Thanh Thủy Pháp văn, thầy Nguyễn Văn Lục Anh văn – khi chúng tôi lên đệ lục, thầy Lục nghỉ dạy để đi Úc và nghe nói thầy ở hẳn bên Úc từ đó – Thầy Phạm Văn Quảng, thầy Lưu dạy Toán, thầy Quang dạy Lý hóa, thầy Nguyễn Ngọc Văn Sử địa, Việt văn. Thầy Nguyễn Chi Hoa nhà ở đường Trần Quý Cáp, thầy chơi bóng truyên vá túc cầu rất hay, thầy tuy không hướng dẫn đội bóng nhưng lúc nào cũng có mặt để khuyến khích và tham dự. Không biết cách nào, thầy xin cho các cầu thủ đội tuyển Võ Trường Toản, mỗi người một thẻ đặc biệt được đặc cách vào bơi lội ở hồ tắm OSSU, góc đường Hồng Thập Tự và Nguyễn Bỉnh Khiêm, vốn chỉ dành riêng cho các học sinh trường tây như nhà trắng, Marie Curie, Chasseloup v.v
Thầy Thuận, huấn luyện viên thể dục. Cứ mỗi lần đội túc cầu VTT so giầy với đội các trường bạn, thầy đều treo giải, nếu thắng thầy đãi chầu kem ở tiệm kem Hải Phòng đầu đường Trần Hưng Đạo, nhưng chưa lần nào chúng tôi được hưởng chầu kem tưởng thưởng của thầy cả. Sau thầy Thuận là thầy Ân, thầy hướng dẫn chúng tôi chuyến du ngoạn tại thác Trị An. Đi xe lửa từ Sài Gòn lên Biên Hòa, rồi từ Biên Hòa bằng xe đạp lên thác Trị An, đường đất đỏ dốc lên xuống dọc theo nương rẫy đồi thật hùng vĩ.
Thầy Phạm Gia Nhiêu dạy âm nhạc. Thầy Nguyễn Thanh Thu dạy vẽ. Thầy chạy chiếc xe hơi mui trần, tóc để phủ gáy rất nghệ sĩ và luôn đội béret đen trên đầu. Năm đệ tam, thầy trình bày cho tờ đặc san đầu tiên của VTT, do bạn Trần Ngọc Thương và bạn đã tận tình hướng dẫn tôi cùng biên tập. Thầy An dạy Anh văn. Năm đệ tam, mỗi lần tới giờ anh văn, thầy thường nhờ tôi cầm thư tới ngân hàng quốc gia Việt Nam. Sau nghe nói thầy về làm việc hẳn ở ngân hàng.
Thầy Liêu Kim Sanh dạy Vạn vật. Thầy Nguyễn Mạnh Tuân phụ trách Tổng giám thị từ năm 1956 đến tháng 4/1975. Trung tuần tháng 8/1974, nhân chuyến đi phép từ An Lộc về Sài Gòn cùng mấy người bạn chung đơn vị, tôi có ghé thăm trường. Mấy người bạn đứng nói chuyện với Má-Năm-Khoai-Lang-Chiên, uống đậu đỏ bánh lọt chú Si trên vỉa hè Nguyễn Bỉnh Khiêm. Tôi vào trường thăm thầy Tuân. Đó là lần cuối cùng tôi gặp thầy và cũng là lần đầu tiên tôi trở lại sau khi rời trường năm 1962.
Thầy Châu Thành Minh là cầu thủ túc cầu chuyên nghiệp của đội Việt Nam Thương Tín. Mỗi lần đội VTT so giầy, có thời giờ, thầy thường theo đội để cổ võ và tham gia thi đấu. Nhân chuyến cắm trại của trường ở Long Hải, thầy và thầy Chi Hoa đứng trong hàng ngũ đấu với đội thanh niên Long Hải, thầy Ân là trọng tài. Năm 1982, học tập cải tạo về, cầy chiếc xích lô kiếm sống, tôi lang thang trên đường Nguyễn Thiện Thuật bắt mối, tình cờ gặp thầy, thầy lịch kịch chiếc xe đạp cũ rích, chở theo một bình nhựa lớn. Thầy cho biết là đi bỏ mối nước tương. Trông thầy lam lũ, bệ rạc, hốc hác như một người tù cải tạo vừa được thả về. Tôi xót xa vô cùng, vừa cho thầy vừa cho thân tôi. Dù không học thầy giờ nào, nhưng lúc nào tôi cũng kính trọng thầy, nhất là những lúc sát cánh cùng thầy trong các trận thi đấu bóng tròn. Dưới ánh nắng gay gắt của Sài Gòn nhiệt đới bụi mù đổi chủ, tôi dừng xích lô, thầy dừng xe đạp. Tôi mời thầy ly xây chừng, ở một quán cóc cạnh chợ đường Nguyễn Thiện Thuật. Ôi cuộc đời éo le, đau đớn và bẽ bàng. Năm 2008, đọc phân ưu trên Web VTT, được biết thầy qua đời sau hơn 20 nằm liệt trên giường bệnh. Thật phũ phàng cho một một kiếp người phù du. Nhìn di ảnh thầy trên màn hình, mường tượng lại những hình ảnh thân yêu xa xưa, một thời thầy huy hoàng trong lớp giảng và linh hoạt trên sân cỏ. Xin được nhắc lại vài kỷ niệm cũ dưới mái trường thân yêu và trên sân bóng tròn, như một nén hương thắp muộn của một môn sinh dâng thầy. Nguyện cầu hương linh thầy sớm về cõi vĩnh hằng.
Thần Bùi Viện dạy Sử địa, thỉnh thoảng được thấy ảnh thầy trên Web VTT. Thầy Lê Thanh Hoàng Dân nhà ở đường Nguyễn Biểu, thầy ở Pháp về, phổ biến Paris mode, quần ống túm cho đám học sinh đua đòi thời trang. Chúng tôi cũng được học với các giáo sư Đinh Thị Minh Châu, giáo sư Tuyết, giáo sư Lê Cao Phan và nhiều giáo sư khác nữa mà vì thời gian quá lâu, trí óc tuổi già không còn minh mẫn để nhớ hết.
Năm 2008, tôi mất vị thầy khả kính là giáo sư Xuân, thầy là tuyển thủ quốc gia môn đấu kiếm. Thầy có thời gian phục vụ trong Air Vietnam, chung với các học trò cũ là Trần Ngọc Thương, Võ Quang Liêm, Đặng Ngọc Ần. Lúc đóng lính ở Qui Nhơn, mỗi lần về phép Sài Gòn, trở lại đơn vị, lười không muốn đi máy bay quân sự Mỹ, tôi chỉ cần mua vé máy bay từ Sài Gòn đi Qui Nhơn không cần cố định ngày. Hôm nào muốn đi, xách hành lý tới phi trường. Đặng Ngọc Ẩn sẽ tìm cho chỗ ngồi trên chuyến máy bay sớm nhất.
Cuối 2008, bất ngờ nhận email của Hà Chí Dũng, Hội trưởng Hội Cựu Học Sinh VTT. Bạn cho biết tình cờ đọc mấy bài thơ con cóc của tôi trên mục thơ Web VTT và được biết địa chỉ điên thư của tôi. Bạn từ Mỹ tới làm việc cho hãng ở Đức, khi tới sẽ tìm cách liên lạc với tôi.
Rồi một tối đầu mùa đông sương mù u ám ở một tỉnh nhỏ thuộc tiểu bang NordRhein Westfallen miền tây nước Đức. Sau khi vượt hàng ngàn km cả đi và về, từ thành phố Amsterdam, cố đô vương quốc Hòa Lan mà Dũng vừa du ngoạn. Dũng lang thang trong giá buốt mùa đông khắc nghiệt Âu Châu, tìm nhà tôi. Uống xong ly cà phê, hoàn huyên độ nửa giờ. VTT niên khóa đầu tiên 1955-1962 Nguyễn Văn Liên bắt tay diện kiến và giã biệt VTT niên khóa cuối cùng (trước 4/1975) Hà Chí Dũng 1968-1975. 23 giờ đêm chia tay, Dũng phải về lại Frankfurt. Biết bao giờ gặp lại !
Có lần tôi về Việt Nam, dự định ngày đẹp trời nào đó sẽ tới thăm lại cảnh cũ ngày xưa, chụp vài bức ảnh kỷ niệm thời tuổi trẻ lê lết dưới mái trường thân yêu , nhớ lại những ân sư và đồng môn. Ấy thế mà ước mơ giản dị ấy chưa kịp thực hiện, vợ chồng tôi phải bất ngờ vội vã từ biệt quê hương rất lâu rồi xa cách, trở lại đất tạm dung vì lý do khẩn cấp của gia đình. Thật là vô cùng luyến tiếc vì biết bao giờ mới có dịp về nữa.
Tuổi đời ngày càng chồng chất, sức khỏe yếu kém, đâu còn khả năng ngồi máy bay vượt nửa vòng trái đất thăm lại quê hương và trường xưa.
Xin được gửi nơi đây tấm chân tình kính mến và tri ân đến quý thầy cô đã tận tâm giáo huấn chúng tôi trở nên người hữu ích cho xã hội. Và hướng về các bạn cũ ngày nào cùng nhau vui buồn dưới mái trường thân yêu.
Xin chúc tất cả quý vị, các bạn sức khoẻ, hạnh phúc và hưởng mọi an lành.
VTT Nguyễn Văn Liên 1955-1962
Toenisvors, Cộng Hòa Liên Bang Đức
24.4.2009