Năm lớp đệ Tam (khoảng 1960) ông được trường tín nhiệm rồi rủ, hướng dẫn tôi, hai đứa cùng làm tờ Đặc San đầu tiên của trường VTT, in ở một nhà in nhỏ gần ngã ba đường Ngô Tùng Châu - Cống Quỳnh, gần trường Nguyễn Bá Tòng.
Nếu đúng là Trần Ngọc Thường tôi mô tả trên, thì đây, Nguyễn Văn Liên, thằng bạn cùng lớp, ngồi cách nhau một dẫy bàn, gần cuối lớp. Ông cứ lấy cớ làm Đặc San, lên văn phòng Thầy Tổng Giám Thị Nguyễn Mạnh Tuân xin phép, rồi dẫn tôi, hai thằng cùng công khai cúp cua dài dài suốt thời gian cận Tết.
Mong đúng là ông, anh chàng tài hoa rất có khiếu văn thơ ngay từ thời còn ở đệ nhất cấp làm tôi mê mẩn. Chúng ta tái ngộ, liên lạc nhau, kết giao lại chân tình thời học trò mộng mị ngây ngô cách xa nay gần 50 năm.
Ra trường, vào đời, lúc đất nước đang nhen nhúm chiến tranh, biết bao lận đận dập vùi, cuộc sống ba chìm bẩy nổi bôn ba lang thang khắp chốn. Cuối cùng tuổi già ngồi đây, tha hương xứ người, ôn lại bạn cũ, kỷ niệm xưa như vừa mới hôm nào. Mong đúng là ông. Nếu không phải, coi như không có thư nầy và thành thật thứ lỗi.
Nguyễn Văn Liên (Lớp A, 1955-1962)
Đang học lớp đệ Thất trường trung học tư thục Phong Châu thì tôi được giấy gọi tới trình diện Ban Giám Đốc trường trung học Võ Trường Toản. Thuở nhỏ, từ năm năm tuổi, tôi đã xa gia đình. Ba má nghèo quá nuôi không nổi sáu đứa con, ba tôi gởi tôi và thằng em trai kế cho bà nội. Nhà bà nội ở đường Trần Bình Trọng, bán tiệm tạp hóa. Ngoài bà nội, còn chú Ba, ông độc thân, làm nhà thương “Le Flem”, một quân y viện của quân đội Pháp, đường Thuận Kiều, tiền thân của bệnh viện Chợ Rẫy sau nầy. Cô Tư có gia đình. Tôi học tiểu học từ lớp Năm tới lớp Nhất ở trường Tiểu Học Chợ Quán, đối diện ga xe điện Arras, đường Trần Hưng Đạo. Khi chú Ba lập gia đình, anh em tôi theo chú dời về nhà mới đường Nguyễn Kim, thuộc gia cư liêm giá cuộc. Tôi chuyển trường, tiếp tục học lớp Nhất trường tiểu học Nguyễn Tri Phương, cuối năm, thi đậu Tiểu Học. Thi vào đệ Thất Petrus Ký rớt. Học một năm lớp tiếp liên trường Tiểu Học Đỗ Hữu Phương đường Hồng Bàng. Thi Petrus Ký lần nữa rớt. Chú tôi ghi tên cho học đệ Thất trường Phong Châu. Một trường trung hoc tư thục nhỏ, gần nhà, chỉ hai lớp đệ Thất, đường Nguyễn Văn Thoại. Cùng học lớp tiếp liên với tôi có Trần Tấn Vu Long. Anh chàng có ba anh em, quê Vĩnh Long, lên Sài Gòn ở với gia đình người cô thứ Sáu, làm nghề bà Mụ, mở viện bảo sanh, chỉ cách trường Phong Châu hai ba căn nhà. Vu Long cũng học đệ Thất trường Phong Châu.
Học được hai ba tháng gì đó lớp đệ Thất tư thục thì đùng cái có giấy gọi vô Võ Trường Toản. Trường nghe lạ quá, ở đâu ta, xa gần đây? Ồ, mà mặc kệ, miễn là trường công, hằng tháng chú khỏi trả học phí, là còn cơ hội được tiếp tục mài đũng quần trên ghế nhà trường. Năm 1955, học xong tiểu học, học sinh nam chỉ có cách tiến thân lý tưởng là thi vào lớp đệ Thất trường công lập, khởi đầu cho năm đầu chập choạng trung học, (hình như) chỉ duy nhất Petrus Ký. Sau nầy, khi đã kha khá hội nhập với trung học, tôi được biết, ngoài Petrus Ký, Võ Trường Toản còn Kỹ Thuật Cao Thắng, Trần Lục, Nguyễn Trãi, Hồ Ngọc Cẩn đối diện chợ Bà Chiểu, Gia Định … Trung học công lập dành cho nữ sinh, ngoài Gia Long còn Trưng Vương, Lê Văn Duyệt, …
Trần Tấn Vu Long cũng được gọi vào Võ Trường Toản. Nhà tôi ở Nguyễn Kim, Vu Long ở Nguyễn Văn Thoại, gần nhau. Hai thằng, ngày ngày rủ nhau đạp xe đạp đi học cùng. Trường xa quá, ngay vành đai thủ đô Sài Gòn với tỉnh Gia Định, đối diện Sở Thú, lại học ngày hai buổi, trưa không thể về nhà ăn trưa. Thím tôi cho vài đồng giằn túi, loại giấy bạc một đồng xé đôi xài năm cắc, mua bánh mì, uống nước phông tên, đợi giờ học chiều.
Trường gồm một dẫy nhà, tầng trệt và hai tầng lầu. Cổng chính trên đường Nguyễn Bỉnh Khiêm còn mang bảng hiệu trường Sư Phạm Nam Việt, hai lớp giáo sinh ở tầng trệt, nam nữ ngồi chung, được nửa niên khóa, trường Sư Phạm Nam Việt dời về Trung Tâm Sư Phạm Quốc Gia, cuối đường Thành Thái, ngay ngã ba đường Thành Thái và Cộng Hòa. Trường Võ Trường Toản chưa có bảng hiệu ở tầng một. Có ba lớp đệ thất và văn phòng. Tôi chọn lớp A, có khoảng hơn ba mươi học sinh, sát phòng hành chánh và Giám Thị. Hiệu Trưởng đầu tiên là thầy Đinh Căng Nguyên, ông lớn tuổi điềm đạm, nghiêm chỉnh ít nói, miệng lúc nào cũng nhóp nhép như nhai kẹo cao su, hút píp và đi xe Traction đen. Phòng Giáo Sư và Hiệu Trưởng đầu dẫy, cạnh cầu thang xuống tầng trệt và lên tầng hai là trường của các học sinh khiếm thị. Họ vừa học nghề và văn hóa, nội trú tại trường. Sau đó, trường nầy được dời về Ngã Sáu, đường Trần Hoàng Quân, đối diện Trung Tâm Dự Bị Đại Học.
Tôi ngồi bàn gần cuối lớp. Giữa một bạn khác và Gương (Lê Văn ?), lớn tuổi hơn tôi, nhà đâu trên Thủ Đức. Qua năm đệ Ngũ, anh đi học bằng xe gắn máy Sachs của Đức hiệu Brummi, loại xe rất được ưa chuộng trong các cuộc đua xe gắn máy ở Sài Gòn lúc bấy giờ, tôi cũng được biết anh đã có gia đình! Anh kể tôi nghe rất nhiều chuyện liên quan đến Thầy Tốt, bà con với gia đình anh. Thầy Tốt đang là sinh viên y khoa, Thầy bị bệnh ung thư máu, đang điều trị trong nhà thương Grall. Anh ruột Thầy, một bác sĩ từ Pháp về thăm, ngậm ngùi bất lực nhìn em mình ra đi vĩnh viễn khi tuổi đời và tương lai còn rất trẻ, huy hoàng. Đệ nhị cấp, Gương không còn ở trường nữa, không biết anh chuyển đi đâu?
Người bạn mới tôi kết nhất là Võ Văn Liêm, Liêm từ tỉnh lên Sài Gòn, trọ nhà người bà con đường Nguyễn Trung Ngạn, con đường ngắn cắt ngang Cường Để, chỉ dài vài trăm thước, nằm khoảng giữa song song Lê Thánh Tôn và Nguyễn Du. Liêm lớn tuổi, ít nói, môi dưới trề trề, như lúc nào cũng mỉm cười. Anh đá banh rất lăn chai, liều mạng. Liêm có cuộc sống trầm lặng, chỉ vài năm đầu chung học, sau đó không biết anh đi đâu? Mãi tới 1969, tôi đang đóng lính ngoài Tam Quan, địa danh cực Bắc tỉnh Bình Định, bên kia đèo Bình Đê là địa phận tỉnh Quảng Ngãi, thuộc Quân Đoàn I. Thì bất chợt nhận được thư anh, nội dung, anh đang khốn khó muốn tìm chỗ dựa. Tiếc thay, tôi tự nghĩ, không đủ khả năng giúp anh nên đành lờ đi! Liêm ơi, nếu hên, bạn đọc được những dòng chữ nầy, xin thông cảm và hiểu cho tôi, với cấp bậc và chức vụ lúc đó, làm sao tôi làm chỗ cho bạn dựa được? Năm đệ Lục, nhóm chúng tôi gồm Bùi Văn Tấn, Đặng Ngọc Ẩn, Lưu Ngọc Diệp, Ta Văn Thinh, Trần Tấn Vu Long, Võ Văn Liêm, Trương Gia Bình, La Văn Bé, Toản, Thành Bianchi, Tuấn, Giao (lớp B) tổ chức du lịch Gò Công bằng xe đạp, xuống nhà Tạ Văn Thinh. Bận đi, đạp qua cầu Xóm Củi, rồi Cần Giuộc, cầu Ông Thình, Cần Đước … Tới Gò Công, ghé nhà Tạ Văn Thinh ở Tân Niên Tây, ăn bánh bò má anh làm, rồi kéo nhau ra biển Tân Thành. Bãi biển đầy rác rến, cát đen vắng vẻ, chẳng có ai tắm. Mực nước tít ngoài xa lặng sóng, yên như mặt hồ. Lác đác vài ba người dân địa phương lam lũ mò kiếm nghêu sò. Ngủ bụi một đêm trên bờ biển. Qua ngày sau, chúng tôi đạp qua Chợ Gạo, tới Mỹ Tho, rồi đón xe lửa về Sài Gòn.
Năm đệ Ngũ tôi không còn ở với chú thím, về ở nhà Má trong xóm lao động lụp xụp nghèo đường Đỗ Thành Nhân, Khánh Hội. Ba tôi, vì sinh kế, ông theo làm công nhân cho một hãng thầu xây cất ở Vientiane, Lào. Rồi biền biệt mấy chục năm không về; năm 1997 ông mất, được đồng hương tổ chức an táng trong nghĩa trang Phật Giáo người Việt ở Vientiane.
Tạ Văn Thinh quê Gò Công, lên Sài Gòn ngụ nhà người anh thứ hai đường Nguyễn Duy Dương, quận 10. Thinh to con, tóc húi cua, rất “lực sĩ”. Tôi và anh dự lớp tập tạ “Kiến Càng” của Lực Sĩ Nguyễn Công Án trong sân vận động Phan Đình Phùng, đường Phan Đình Phùng, đối diện tòa soạn tạp chí Bách Khoa. Không rõ lý do sao, Thinh muốn dọn qua ở nhà tôi, anh ở đó, gọi Má tôi là Má, tới 1962, ra trường, đăng lính Không Quân, phục vụ trong phi trường Đà Nẵng rồi Biên Hòa tới ngày đứt phim. Anh lập gia đình, ký cóp tậu được căn nhà nhỏ đường hai mươi thước xóm trong của khu Khánh Hội mênh mông đầy rẫy cạm bẫy và tệ nạn. Không biết nguyên cớ nào từ sau 1973, Thinh làm mặt lạ với tôi, đến nỗi ngày Má tôi mất năm 2001, anh cũng không đến tiễn biệt, dù anh ở ngay gần cạnh. Buồn thay cho một tình bạn thắm thiết từng nhiều năm một nhà, ăn cùng mâm, ngủ cùng chiếu, ngọt bùi cùng chia xẻ những ngày chập chững vào đời. Ngoài Tạ Văn Thinh trọ nhà tôi còn có Đoàn Ngọc Quỳnh, Bắc Kỳ di cư Tân Mai, Biên Hòa, xuống Sài Gòn làm báo văn nghệ chuyên nghiệp. Nhờ Quỳnh tôi biết Câu Lạc Bộ Văn Hóa đường Tự Do, biết La Pagode, biết mặt quen tên nhà thơ Đinh Hùng, Thanh Tâm Tuyền, Bùi Giáng, nhà văn Võ Phiến, Dương Nghiễm Mậu, Mai Thảo, … biết tòa soạn nhật báo Sống đường Nguyễn Trãi, nhà xuất bản Nguyễn Đình Vượng đường Phạm Ngũ Lão. Năm 1967 Đoàn Ngọc Quỳnh bị “đi quân dịch” rồi tử trận ở Sư Đoàn 5 Bộ Binh. Tôi biết tin, nhờ tình cờ đọc được bài thơ của Vũ Bình Nghi làm tưởng nhớ anh đăng trên một tạp chí văn nghệ. Hai người nữa tôi gọi bằng cậu là cậu Khương chỉ ở vài tháng rồi đi; cậu Quỳnh ở lâu hơn, vừa đi học vừa kèm học sinh tư gia. Đầu thập niên 60, cậu Quỳnh đi Thủy Quân Lục Chiến và có ghé nhà thăm Má tôi.
Thứ Năm, ngày … tháng … năm
Ở đâu ra mà tới giờ nầy mới trả lời vậy, ông bạn già của tôi ơi? Đúng y chang, tôi đây, Trần Ngọc Thường đây. Liên nhớ nhà tôi ở hẻm đường Nguyễn Trãi, vô Thủ Đức, đi Pháo Binh, giải ngũ, làm Air Vietnam, rồi tái ngũ thì trí nhớ bạn còn tốt quá, rất mừng. Cách đây mấy tháng, VTT Trần Bình Chánh (1961-1968) có “forward” cho mình địa chỉ “e-mail” của bạn, mừng quá, thư liền và chờ hồi âm, nhưng cái cổ dài ra cả mấy thước mà vẫn bặt tin. Nên buồn muốn khóc, vợ cản quá mới thôi nhớ nhung đấy. Cảm động cho tấm lòng ôn cố tri tâm không!
Mình tái ngũ sau Mậu Thân (1968). Lên Đại Úy 1969 cho tới tháng 4/1975. Vô hộp, bóc 11 quyển lịch. Về 1986 rồi qua Mỹ 1994 diện HO, hiện ở tiểu bang Idaho.
Rất mừng được tin bạn. “Check e-mail” thấy tên lạ định bỏ qua, té ra là bạn, mừng hết-biết-già luôn! Chắc là lấy tên bà xã giả dạng thường dân, phải không? Bộ trước đây không nhận e-mail của mình sao? Dạo nầy thế nào? Vợ con, gia đình, bản thân, thời sự? Đầy rẫy câu hỏi đó bạn trả lời ngay đi. Thôi thì từ đây cứ giữ liên lạc nầy qua e-mail. À mà nhớ cho số Phone để nói chuyện cho thỏa lòng mong đợi.
Qua Mỹ chơi được không? Đang hưỡn đây, có thể tiếp gia đình bạn qua chơi. Happy Thanksgiving Liên và gia đình. Đây là số điện thoại tôi, gọi ngay đi ông bạn già ơi!
Trần Ngọc Thường
Thứ Sáu, ngày … tháng … năm
Ông Thường thân,
Xin được dùng tĩnh từ “thân” sau tên ông. Ông như rồng, ẩn hiện không biết đâu tầm. Ra đời rồi không tính, hồi còn đi học, biết ông có ý định trốn học, rủ mấy thằng nữa canh me vọt theo, thế mà ông mất hút, tìm khắp xó xỉnh trong Sở Thú, không thấy, hóa ra ông lặn ra Kim Sơn ngoài Lê Lợi, ngồi một mình nhâm nha cà phê, bố khỉ. Đùa ông tí.
Cách nay bẩy tám năm, có anh bạn chỉ trang Web http://www.saigonbao.com. Vào thấy có trang http://www.votruongtoan.org, thì ra phe ta. Mấy anh bạn trẻ chủ trương nhiệt huyết và thiết tha với bạn cũ trường xưa quá. Vào mục ảnh lớp 55-60 của Nguyễn Hữu Thống, vài tấm ảnh đen trắng trầy tróc cũ xì thảm hại quý giá, thấy có tấm màu khổ lớn 9x13, hình hai ông bà già đứng trước tổ chim. Mấy con chim con ngong ngóng cổ chờ mẹ. Ảnh ghi chú Trần Ngọc Thường 55-62. Mừng quá, muốn tầm liên lạc thăm hỏi mà không biết làm sao, ông thấy có ngu không?
Cách nay mấy hôm, nhận thư VTT Trần Bình Chánh (1961-1968), anh ta cho biết niên trưởng Trần Ngọc Thường báo tin Thầy Lê Thanh Hoàng Dân ở New York không đươc khỏe. Rà cả đống địa chỉ, thấy một tên quen quen, nghi là ông. Gửi thử cầu may, hên quá, đúng. Từ nay, mình cạnh nhau qua màn hình máy tính nha. Ngồi gõ cho ông cái thư cả tiếng đồng hồ, mỏi lưng, cay mắt, xoay qua quay lại nhìn tờ giấy ghi chỉ cách đánh dấu chữ Việt, nhức đầu đau vai. Có khi loay hoay, gõ nhầm nút, thư bị xóa mất, công toi cả giờ dài kỳ cõm.
Ông Thường thân,
Gia đình tôi qua Đức mùa xuân 1984, diện “đoàn tụ gia đình”, gồm vợ chồng và năm người con, do con gái thứ nhì 14 tuổi, năm 1980 vượt biển được tầu Cap Anamur của Đức vớt. Sau 6 tháng nằm trại tỵ nạn Palawan, Phi Luật Tân, chính phủ Đức nhận cho định cư nhân đạo vào Đức, rồi cháu bảo lãnh gia đình khi tôi còn trong ấp.
Chúng tôi định cư tại tiểu bang NordRhein Westfallen, miền Trung Tây nước Đức. Vùng nầy là vùng của than đá và kỹ nghệ kim khí, mùa đông tương đối ấm. Nhưng vài năm gần đây có lẽ do ảnh hưởng biến đổi khí hậu nên cũng thê thảm lắm từ tháng 10 đến cuối tháng 4 năm sau. Cô trưởng nữ đã xuýt xoát 50, cậu trai út gần 40. Tất cả đã lập gia đình và đều có việc làm ổn định.
Hơn hai mươi năm tha hương tôi cầy khoảng hơn 10 năm. Nay, hai vợ chồng già bẩy mươi, sống trong căn nhà thuê 50 thước vuông ở một tỉnh nhỏ, Toenisvorst, xung quanh là trang trại và cánh đồng hẻo lánh bát ngát. Căn nhà mà tháng 11/2008, VTT Hà Chí Dũng (1968-1975) từ Mỹ qua Đức, công tác cho hãng ở Frankfurt. Nhân cuối tuần, Dũng cùng mấy người bạn nữa thuê xe, chạy qua thăm viếng thành phố hải cảng danh tiếng Amsterdam, Hòa Lan. Bận về, trên đường trở lại Frankfurt, Dũng ghé tìm nhà tôi. 22 giờ đêm cuối thu, trời đầy sương mù giá buốt, Dũng chập choạng dưới đèn đường mờ nhạt, lang thang trong khu xóm hẻo lánh vắng ngắt của một thành phố heo hút, trưởng giả tìm nhà tôi. Chúng tôi rất tiếc cuộc diện kiến thật ngắn ngủi. Tôi cho Dũng biết đã đặt sẵn thức ăn ở một nhà hàng, chỉ cần báo điện thoại, vài phút sau là họ mang tới, nhưng Dũng từ chối vì thời giờ không nhiều, đã ăn dọc đường và hiện không thấy đói. Tôi mời mấy người bạn đồng hành với Dũng vào nhà rửa ráy và uống cà phê, nhưng mấy anh Bẩy Ấn Độ không vào. Họ chờ Dũng ngoài xe. Tôi chỉ kịp pha bình cà phê, kèm mấy thỏi Schokola, bịch bánh ngọt để Dũng mang theo đường. Xơ xài tiếc rẻ đôi ba câu thăm hỏi làm quen gặp mặt. Chụp chung vài tấm ảnh kỷ niệm, rồi bùi ngùi chia tay. “Dũng thân mến, biết chừng nào mình gặp lại nhau nữa đây?”
Tôi, một trong nhóm hoc sinh hơn trăm người, bỡ ngỡ khù khờ sơ khai của niên khóa đầu tiên 1955-1962, cách nay gần năm mươi năm. Và Dũng, một trong khối học sinh trường trung học công lập uy tín đã tiến bước vững chãi đầy đủ những thành tựu đáng kể giữa thủ đô yêu dấu của niên khóa cuối cùng 1968-1975 (tính tới 30.4.1975). Chúng tôi bắt tay nhau lần đầu, cũng có thể là lần cuối, diện kiến và giã biệt.
Tôi vừa kể với ông một trong muôn ngàn kỷ niệm Võ Trường Toản, còn nữa, tôi cố gắng nhớ, lục tìm trong tiềm thức, ôn lại quá khứ xưa, để “tha hương ngộ cố nhân”
Liên
Thứ Tư, ngày … tháng … năm
Chào bạn Trần Văn Tư,
Tôi dùng tĩnh từ thân với ông như với Trần Ngọc Thường và từ “ông” thay vì từ “bạn”, vì ít ra cũng sáu bảy năm cùng lớp cùng trường. Đúng, ông nhận ra tôi rồi đó. Tôi đá banh cho đội của lớp mình, đá chân không không giầy, mỗi lần thi đấu với đội lớp khác, phải vất vả chạy kiếm mượn áo cho cả đội. Và tôi đá chân không cho đội tuyển của nhà trường cùng với Thầy Châu Thành Minh và Thầy Nguyễn Chi Hoa trong nhiều trận đấu. Điển hình, trận đấu với đội trường Mạc Đỉnh Chi tầm tã mưa giông trên sân Phú Lâm. Trận đấu với đội thanh niên Long Hải, nhân dịp trường tổ chức cắm trại ở Long Hải trên sân Long Hải cạnh bãi cát lồng lộng gió biển. Đá chân không cho tới lúc Thầy Tổng Giám Thị Nguyễn Mạnh Tuân viết cho mười lăm cầu thủ đội tuyển trường mỗi đứa một tấm giấy nhỏ, cầm tới tiệm bán dụng cụ thể thao Giao´s Sport, đường Gia Long, để đo chân và nhận giầy. Ông mở trang Web VTT, mục hình ảnh 55-62, VTT Lý Mạnh Tài (1968-1975) có post lô hình của tôi, trong đó có mấy tấm hình đá banh. Và khi “lên giầy”, đội đụng trận liên miên với đội Nguyễn Trãi nhiều nhất, vì Thầy Phê, huấn luyện viên thể dục trường Nguyễn Trãi là bạn thân với Thầy Thuận, huấn luyện viên trường mình. Tranh giải vô địch học sinh do Bộ Quốc Gia Giáo Dục tổ chức, đấu với các đội sinh viên Sài Gòn, Hồ Ngọc Cẩn, Trần Lục, Huỳnh Khương Ninh, ... Tôi được Thầy Thuận và Thầy Tuân đề cử vào đội tuyển học sinh của Bộ.
Tôi thì chưa nhận ra ông là một trong những con “mọt sách”chăng? Gợi lại tiềm thức tôi nhớ ra những con mọt luôn đứng đầu lớp, thí dụ: Lê Minh Chiếu, Trần Trọng Phu, Phan Văn Tạo, Nguyễn Tấn Nghị, Phan Bá Phước tự Minh Đạo, Bùi Văn Tấn, Tô Anh Võ, Nguyễn Văn Kiệt, … Có hai tấm hình chụp nguyên lớp trên mục hình ảnh VTT 55-62 tôi kể trên. Một chụp với hai Thầy Nguyễn Ngọc Văn dạy Sử Địa, Việt Văn và Thầy Nguyễn Văn Lục dạy Anh Văn, sau đó Thầy đi Úc. Một tấm khác chụp với Thầy Lê Thanh Hoàng Dân. Ông đứng chỗ nào, ảnh tuy nhỏ và mờ nhưng tôi có thể hình dung được. Trong lớp, ông ngồi vị trí nào? Có thể tôi tầm ra.
Cách nay hơn nửa tháng, tôi bắt liên lạc được với Trần Ngọc Thường, hắn hiện ở Mỹ và đến 14/12/2010 nầy tốt nghiệp khóa-học nghề-thợ-hớt-tóc, nhờ có kinh nghiệm 11 năm hành nghề trong nhiều trại cải tạo!
Năm 2000, 2006, 2007 vợ chồng tôi về Việt Nam, có tái ngộ vài bạn cũ: Đặng Ngọc Ẩn, La Văn Bé, Tô Anh Võ, Bùi Văn Tấn, Phạm Như Ý. Vẫn hồn nhiên “mầy mầy, tao tao” như thuở học trò xa xưa, trước mặt mấy bà vợ và mấy người con đã trưởng thành thành danh.
Năm 2000, lần đầu sau 16 năm tha hương về lại quê hương, tôi không có được xúc động như nhân vật bà Đô trong truyện dài “Người Đàn Bà Bên Kia Vĩ Tuyến” của Doãn Quốc Sỹ, sau khi xuống tới chân cầu thang máy bay, quỳ hôn mảnh đất quê hương. Nhưng những giọt nước mắt chân tình dành cho những dấu yêu nồng nàn của một tình cảm rạt rào trong lòng tự nhiên tuôn trào không sao ngăn được. Dọc đường về nhà trọ, từ ngạc nhiên nầy đến thích thú khác, Sài Gòn hoàn toàn khác lạ, ngay chính Khánh Hội, Quận 4, nơi tôi sinh ra và trưởng thành, tôi cũng lạc lõng ngỡ ngàng.
Thôi nha, thỉnh thoảng ngồi gõ cho nhau, ôn kỷ niệm cũ, thời hoa mộng học trò. “Tha hương ngộ cố nhân” ông ạ.
Liên
Thứ Tư, ngày … tháng … năm
Ông Thường thân,
Hôm kia, tôi gửi thư cho VTT Trần Bình Chánh (1961-1968), xin hộ ông Đặc San VTT 2010. Chánh sẽ gửi ngay cho ông. Có khi ông đã nhận được rồi. Cũng hôm kia, vùng tôi ở rơi tuyết làm trở ngại quá. Bình thường trời ráo, tôi đạp xe loanh quanh khắp vùng, vừa đi và về 20 cây số là thường, có khi hơn. Ông mở web VTT, mục thơ, kiếm tên tôi. Có bài lục bát tặng ông, dở đừng cười, đó cũng là lỗi do ông ngày xưa hướng dẫn tôi không tận tình, lúc tôi tập tành bon chen vào làng văn nghệ.
Tôi thấy tên Trần Tấn Vu Long trong danh sách thành viên niên khóa 55-62. Cũng như thấy tên ông cách nay 8 năm, bây giờ mới liên lạc được.
Năm 2000, lần đầu sau 16 năm xa xứ, vợ chồng tôi về Việt Nam. Đầu tiên tôi kiếm Bùi Văn Tấn, nhà ở đầu đường Cô Giang. Khi ra đời trước 75, Tấn được miễn dịch vĩnh viễn vì con trai độc nhất, lấy cử nhân khoa học, rồi làm Giảng Nghiệm Viên Đại Học Khoa Học. Ba Tấn là Đông Y Sĩ, ngồi bắt mạch kê toa cho một tiệm thuốc Bắc người Tàu cạnh nhà. Ông người miền Trung, đâu Quảng Ngãi, Quảng Nam gì đó. Má Tấn người Nam, dân Bình Dương, may vá vớ vẩn ở nhà. Hồi đi học, tôi chơi thân với Tấn, luôn ngồi sau lưng anh ta để dễ cóp bài. Tấn thường giúp tôi giải những bài tập hoặc những đề luận trong mọi môn học mà tôi chưa quán triệt một cách rành rẽ và dễ hiểu. Cũng do Tấn tôi biết Marlon Brando, Paul Newman, Kim Novak, Liz Taylor, Alain Delon, Sophia Loren, Pat Boone, Mario Lanza, Frank Sinatra, … Tấn không những nhớ tên những tài tử chính của nghệ thuật thứ bảy Mỹ mà cả Pháp, Ý. Tài tử phụ, đạo diễn, ca sĩ Tấn cũng rất thành thạo.
Nhà gia đình Tấn ở bây giờ do ba má để lại, y chang số 23, đối diện bên kia là chợ Cầu Muối ồn ào hỗn tạp, vẫn thấp lè tè so với hàng xóm đã vươn cao ngất ngưỡng. Vợ Tấn ngồi bán hàng xén trước cửa, hình như cái xạp nhỏ. Một phần của chiều ngang căn nhà cho thuê, người thuê đặt cái tủ kính nhỏ bán vàng. Tấn cho biết không còn dạy học nữa, lợi tức vợ chồng anh trông vào hai cái “mối-kinh-doanh” đó. Tôi bẻn lẻn tặng vợ Tấn cục xà phòng FA, bịch Cacao 500gr, hai ống 40 viên Multivitamin ngâm nước uống. Tấn vẫn như xưa, gầy, ít thay đổi. Chúng tôi mầy mầy tao tao, và Tấn thỉnh thoảng rất hồn nhiên chêm tiếng “Đan Mạch” trong câu nói. Vợ tôi và vợ Tấn ngồi cạnh đấy hóng chuyện, luôn ré lên tiếng cười rộn rã thích thú.
Từ Tấn, tôi tìm được Đặng Ngọc Ẩn ở chung cư Ngô Gia Tự, Ngã Bẩy. Từ Ẩn, tôi tìm được La Văn Bé bên Quận 8, rồi Tô Anh Võ bên Gia Định. Chúng tôi họp mặt buổi ăn tối trong nhà hàng gần chợ An Đông mà chủ nhân là một anh Tàu lính kiểng cũ của Trần Tấn Vu Long. Dở quá chừng, lại ồn nữa vì bàn tiệc đặt chung trong gian phòng rộng đang có lễ cưới. Tấn cho tôi tin Hồng (tôi quên họ) mất tích trên cao nguyên từ 1972, tin Trần Trọng Phu sạt nghiệp do ý định như “mấy cái cội đèn”, Nguyễn Tấn Nghị mở phòng mạch trên đường Hồng Thập Tự, Lâm Minh Chiếu cùng toán Việt kiều sống lâu năm ở Pháp, quyên góp gây quỹ, thường về VN làm thiện nguyện, xây được nhiều cây cầu bắc ngang những con rạch nhỏ ở các nơi xa hẻo lánh nghèo vùng đồng bằng sông Cửu Long.
Ông Thường thân,
Nếu ông cảm nhận được, ngồi cả tiếng đồng hồ mới gõ rồi cái thư cho người bạn cũ, đau lưng mỏi mắt nhức cổ, trật tới sai lui, có khi thư sắp xong, lẩm cẩm bị xóa mất; là một cái thú, thì đó là điều hân hạnh cho chúng ta.
Chúc ông bà và bửu quyến mọi điều lành.
Liên
Thứ Bẩy, ngày … tháng … năm
Ông Thường thân,
Năm đệ Tam, 1960, trường tín nhiệm giao ông trọng trách làm tờ Đặc San VTT đầu tiên. Ông rủ tôi, rồi truyền nghề, hướng dẫn từ A đến Z để thực hiện tờ báo. Thầy dạy vẽ Nguyễn Thanh Thu trình bày bìa. Ông tìm nhà in rẻ nhất. Tôi viết ba cái truyện, một đề tên tôi, một cho Trần Tấn Vu Long và một để tên Đặng Ngọc Ẩn. Nói là truyện cho oai, chứ thật ra là những bài luận văn mình thường làm trong giờ Việt Văn của Thầy Nguyễn Ngọc Văn hay Cô Khưu Thị Ngọc Sang. Thoạt đầu ông không tin tôi viết được nhiều vậy, phải cam đoan thề thốt hoài ông mới chịu cho đăng.
Tới lui từ trường tới nhà in ròng rã hàng tháng trời, một nhà in nhỏ, lụp xụp cạnh ngã ba Ngô Tùng Châu và Cống Quỳnh, gần trường Nguyễn Bá Tòng, tạo đủ loại lý do, công khai cúp cua. Cuối cùng thì cũng xong, tờ Đặc San hoàn thành, bìa được in láng loại rẻ tiền nên về mỹ thuật thì không giống con giáp nào nhưng cũng đủ các mục văn hóa, xã hội, giáo dục, trào phúng, thể thao. Rồi ông và tôi, cùng cả chục tên nữa, ôm báo đi bán, thoạt tiên ở các trường công lập bạn: Nguyễn Trãi, Hồ Ngọc Cẩn, Petrus Ký, Cao Thắng, Chu Văn An, một trường dạy nghề đệ nhất cấp gần Tòa Đại Sứ Pháp trên đường Hồng Thập Tự (tôi quên tên trường nầy, trường Thực Nghiệp?) Ẹ nhất là vào bán báo ở mấy trường nữ, mặt mũi tên nào cũng thộn một đống vì bị chọc quê: Cô bạn láng giềng Trưng Vương khó tánh ngay bên cạnh. Trường nữ danh tiếng Gia Long trên đường Phan Thanh Giản, trường nữ Lê Văn Duyệt bên Gia Định. Tụi mình cũng mang báo tới bán ở mấy trường tư thục như Nguyễn Bá Tòng, Thăng Long, Huỳnh Khương Ninh, Hưng Đạo, Kiến Thiết … Không biết báo bán có lấy lại vốn in cho trường không, tôi quên khuấy đi mất.
Chỉ còn mấy ngày ngắn ngủi nữa là hết năm âm lịch. Năm xưa, để chuẩn bị cho lễ tất niên cuối năm, ban văn nghệ trường ráo riết tập dượt, sớ táo quân, ca nhạc kịch, liên hoan, rồi nghỉ Tết.
Vào mấy trang báo và TV bên Việt Nam, hình ảnh Tết vui quá, thật hoành tráng rộn ràng. Quê hương xa quá ông Thường ạ, tụi mình lại đang ở tuổi cuối đời, nhớ thời dĩ vãng xa xưa thật nhiều.
Liên
Thứ Ba, ngày … tháng … năm
Chào bạn Lý Bình Hòa,
Gần cuối cuộc đời mà liên lạc được với ông sau 48 năm xa cách là dịp may hiếm có. Phải trong lớp ông ngồi gần Bành Minh Trí không? Ở dãy bàn đầu tôi nhớ có Trịnh Văn Tựa, Lê Quang Khánh.
Nhận thư ông đã lâu, thật có lỗi mãi đến nay mới trả lời, mong xí xóa. Cảm ơn ông đã hướng dẫn và chỉ địa điểm đến tập lớp Vipassana, rất tiếc, ở Đức tôi chưa nghe nói, có dọ hỏi đồng hương,thành phần già thích tụng niệm chùa chiền, cũng chả ai biết. Thôi thì đành vậy, khi nào trầm trọng, ực thuốc loại chống đau nhức, đỡ đó rồi nhức đó! Đầu năm 2010, tới một Bác Sĩ người Đức chuyên khoa về đau nhức (tiếng Đức:Orthopaedie), chụp hình lưng, định bịnh, châm cứu liên tục 15 ngày, chích rồi Massage; thuyên giảm đấy nhưng cuối cùng cũng chả ăn thua gì. Tôi đủ thứ bệnh, toàn mãn tính, tụy tạng viêm, tuyến tiền liệt viêm, túi mật đã cắt bỏ vì sạn. Năm nay đã bẩy mươi, cố thêm 5 hoặc 10 năm nữa (chắc) cũng đủ đời.
Ông có về thăm Việt Nam không? Đọc báo và coi TV của VN trên mạng, không khí cuối năm gần Tết nhộn nhịp làm nhớ quê nhà quá! Mỗi lần đọc tin, thấy hình “họ” khánh thành một cây cầu, cắt băng thông xe một con đường, khởi công xây cất một chung cư, lòng cũng mừng mừng vui vui, khó tả.
Ông mở trang web VTT mục hình ảnh niên khóa 55-62 sẽ thấy có ba lô hình, một của Nguyễn Hữu Thống, hai của tôi. Lô hình của tôi có một tấm chụp lớp với Thầy Lê Thanh Hoàng Dân. Hàng đứng: thứ ba từ phải qua là Lê Quang Khuyến, Trần Tấn Vu Long, tôi Nguyễn Văn Liên, Trần Ngọc Thường, Thầy Dân (mặc veste đen), Tạ Văn Thinh (bị che nửa mặt), Võ Quang Liêm. Hàng ngồi: cận trái, anh chàng cao ngồng mang kính trắng và đeo cái cặp tổ bố là ông, Lý Bình Hòa, phải không? Ngồi giữa, đeo khăn che mặt là La Văn Bé, cách một người là Đỗ Vinh (lớp B, tay cầm tờ báo) cháu kêu phản tướng Đỗ Mậu bằng bác. Hàng khum: sau lưng La Văn Bé, người ngậm píp là Đặng Ngọc Ẩn, có thời làm chung Air Vietnam với Thầy Xuân, đấu thủ quốc gia môn kiếm thuật, Thầy mất cách nay vài năm ở VN.
Tôi cứ hoài niệm, nhớ kỷ niệm cũ ngày xưa, thật luyến tiếc.
Liên
Chúa Nhật, ngày … tháng … năm …
Ông Thường thân,
Hôm nay là chúa nhật, mồng 4 Tết Tân Mão. Chúng ta cúng tiễn ông bà, chấm dứt những ngày cuối năm rộn rã mua sắm chưng bầy đón Tết. Bánh mứt xôi chè, thịt kho, dưa muối, trái cây, vơi dần. Những cành mai, nhánh đào, bông hoa dần dần úa cành rụng lá. Một năm mới bắt đầu may rủi thuận lợi hên xui thua thiệt chưa biết trước, chờ đón. Tôi mường tượng mô tả không gian đầu và cuối năm thời xa xưa lúc mình còn đó ở Việt Nam. Bây giờ, chúng ta ở Mỹ ở Đức, tôi nghĩ ngày nào mà chẳng Tết, nhất là những ngày già mùa đông ngồi dài cổ nhìn tuyết rơi.
Vùng tôi ở cách nay khoảng 15 ngày, nhiệt độ tăng cao, tương đối đỡ. Tuyết tan dần, đường xá sạch sẽ lại, có hôm ban ngày 10° C cộng, có thể đạp xe loanh quanh mươi mười lăm cây số, tuy trời còn âm u, chưa rực rỡ nắng ấm mặt trời.
Tối ngày 3 tháng 2, mồng 1 Tết, qua mạng, chúng tôi coi đài truyền hình VTC1 của VN, show Gala đón Tết Tân Mão. Trên màn hình xuất hiện gương mặt một cô gái trẻ thật thanh thóa dễ thương và hồn nhiên thơ ngây, đó là bé 17 tuổi Phạm Quỳnh Anh, người Việt Nam, được sinh ra và lớn lên ở Vương Quốc Bỉ. Kèm theo hình ảnh mến luyến ấy là giọng hát học trò ngây ngô của cô ta, bài hát làm tôi phải chậm nước mắt nhiều lần: Bonjour Vietnam. Cô ta hát lời bằng Anh và Pháp Ngữ. Trên phông nền là những hình ảnh vô cùng sinh động của làng quê, con trâu, đàn vịt, chiếc xuồng mong manh trên dòng nước mênh mông, lững lờ trùng điệp những mảng lục bình xuôi về vô tận nghèo nàn. Sau đó là một nữ ca sĩ Việt nam: Khánh Linh cùng nhóm múa của cô ta với trang phục giản dị, quần Jean xanh áo sơ mi trắng ngoài quần, nhún nhẩy nhẹ nhàng theo lời ca thật trữ tình lãng mạng: “… Hãy kể tôi nghe về cái tên xa lạ và khó phát âm kia. Tên mà tôi mang từ thuở mới chào đời … Hãy kể tôi nghe về màu da, suối tóc và đôi chân nho nhỏ, từng nảng đỡ tôi … Những chùa chiền và tượng Phật bằng đá vương bóng hình của cha ông tôi. Những phụ nữ còng lung trên ruộng lúa, vương bóng hình mẹ, bà tôi … Trong nguyện cầu, trong ánh sáng, tôi gặp lại anh em mình … Chạm tới cội rễ, tới hòn đất quê hương … Một ngày kia, tôi sẽ về, về chào người, Việt Nam ơi!”
Lời Anh và Pháp Ngữ tôi không hiểu (nghe có rõ chó gì mà hiểu!), lời tiếng Việt thật nồng nàn tình cảm (lời Việt tôi nghe rõ hơn tí đỉnh!), làm nỗi nhớ quê hương bừng trỗi dậy. Một nhạc sĩ trẻ người Pháp đã sáng tác bài hát nầy, thật hay và thâm thúy, đậm tình quê hương dân tộc và đầy nhân ái.
Ông Thường thân,
Có dự định gì cho năm mới không? Hỏi cho có vậy thôi, chứ 70 “BÓ” rồi thì làm được gì nữa. Cầu điều lành cho chúng ta.
Liên
Đoạn ngắn riêng cho VTT Lý Mạnh Tài (1968-1975), Paris, France
Ông Trần Ngọc Thường là đồng song lớp A niên khóa đầu tiên 55-62 Võ Trường Toản. Anh chàng cùng tôi làm tờ Đặc San đầu tiên năm đệ Tam (1960). Suốt mấy chục năm qua từ ngày ra trường 1962, không gặp, đến nay vừa liên lạc được, mừng rơn!
Không biết đến chừng nào mới tới Paris nữa. Mà phố Tàu Quận 13 bây giờ vắng vẻ tiêu điều quá hả, hay tại hôm đó (một ngày làm việc mùa hè 2009) chúng tôi đi vào ngày thường, không đúng cuối tuần. Cái siêu thị Tang Frere bán vịt quay, tiệm vàng ở góc đường, nhà sách Nam Á trên lầu, nhà sách Khai Trí nho nhỏ có cái tủ nhỏ bán bánh mì ổ nhỏ nhồi thịt như thời ở Thanh Bạch, kế rạp hát Vĩnh Lợi, đường Lê Lợi, Sài Gòn. Tiệm bán băng dĩa nhạc Thúy Nga. Những người bán rong bánh bò, bánh da lợn, bánh tiêu dọc đường D’Ivry vắng bóng.
Cả đoàn ngụ ở một khách sạn ngay cạnh khu 13, chỉ 15 phút đi bộ. Hàng quán đường xa vắng hoe chả có ai. Vào tiệm phở trên lầu, bát phở lạnh tanh nhạt thếch giá 8 € chả đáng đồng tiền. Tạt vào nhà sách Nam Á mua quyển thơ mỏng “Thơ Ở Đâu Xa”của thi sĩ Thanh Tâm Tuyền, quyển “Khi Đồng Minh Tháo Chạy” của Tiến Sĩ Nguyễn Tiến Hưng, giá sách ghi US ($) phải trả đúng bằng Euro (€). Không như cách nay mươi mười lăm năm, con đường D’Ivry lúc nào cũng tấp nập nhộn nhịp, có cả mấy người (cả chục người) mặc áo bà ba, ngồi dọc vỉa hè, bán mấy cái bánh bò, bánh da lợn, bánh tiêu, bánh ú, y chang chợ cũ đường Hàm Nghi gần chợ chó mèo.
Có bà bạn ở ngoại ô Paris, rất hiếu khách, cứ thiết tha rủ qua chơi hoài, mà cũng không đi được. Chắc anh em mình không có duyên diện kiến rồi, Tài ơi! Thỉnh thoảng gõ cho nhau cái thư, thăm hỏi đôi ba câu, chúc nhau sức khoẻ, đủ quý tình đồng môn chăng? Chúc Tài và bửu quyến năm mới nhiều an lành.
VTT Nguyễn Văn Liên (1955-1962)
Tha Hương Nhộ Cố Nhân - Phần 2 <-- Bấm vào đây để xem tiếp Phần 2.