Mua một cái sofa, tôi cũng không ngờ lại lắm thứ như vậy. Đi quanh quẩn chọn kiểu cũng mất cả tiếng đồng hồ: nào kiểu cổ điển, kiểu hiện đại, kiểu cận kim, kiểu miền Nam, kiểu quê, kiểu thị thành, kiểu lưng lạc đà, kiểu một nệm, hai nệm, ba nệm, kiểu tay gỗ, kiểu tay tròn v.v.. . Bề dài cũng có thứ 80 phân, thứ 90 phân, có cả thứ 100 phân nữa. Thứ làm bằng da, cũng có loại da mềm, da nổi hạt- những thứ này tôi không dám đụng tới vì sợ một ngày kia các ông bà trong Hội Bảo Vệ súc vật chê người sử dụng là dã man- Tôi chọn một cái 80 phân, bọc vải màu, hai nệm rời nhồi "foam" cho êm và đằng sau có thêm hai gối dựa cho thoải mái tấm lưng già.
Mua xong, tiện thể đi xem các thức khác nữa, như giường, tủ, bàn ăn v.v.. . Thấy gì ngồ ngộ, đẹp đẹp cũng ghé đít đặt vào thử để khi về có hình ảnh, cảm giác cho chất xám làm việc. Nhớ lại, ngày xửa ngày xưa, khi còn ở Việt Nam, hồi đất nước chưa bị chia đôi, tôi ở với Bố Mẹ tôi, ở ngoài Bắc. Cái sofa mà chúng ta gọi đây, là cái "trường kỷ" bên đó. Trường kỷ dịch nôm na là cái ghế dài, ghế dựa. Nhưng "ghế dài" lại khác trường kỷ. Ghế dài chỉ là một tấm gỗ độ 1 bộ bề ngang và 6 bộ bề dài đóng trên bốn chiếc chân, từa tựa như ghế các trường Trung, Tiểu học (bên ta). Còn trường kỷ có lưng dựa và hai tay hai bên. Trường kỷ của cha tôi là thừa hưởng của các ông cố tôi, bằng gỗ gụ dày; lưng ghế chạm lọng bốn tấm tranh hoa điểu, tùng hạc. Hai tay ghế cũng chạm thủng hoa giây và chân ghế chạm nổi chữ triện. Nước gỗ lâu đời lên mầu cánh dán sậm bóng. Hai chiếc trường kỷ kê hai bên chiếc bàn trên bày bộ đồ trà và một bát điếu cùng một ngọn đèn "hoa kỳ" (?) nhỏ để lấy lửa hút thuốc. Có khách đến chơi, cha tôi ngồi một bên ghế tiếp và ghế bên kia để cho khách ngồi. Cả hai đều ngồi đối diện, thẳng lưng và khoan thai thưởng trà, nhẹ nhàng đàm luận. Không nói chuyện tục tằn hoặc hung hãn và khi cao hứng cũng không có cười hô hố lớn tiếng. Và Bố tôi cho đó là những thái độ phải có trong tình giao hữu. "Quân tử đạm nhược thủy" -người quân tử đạm bạc như nước- là thái độ kính trọng đối phương, hâm mộ bạn bè, vì thế không được xuồng sả, cũng không được "vồn vã thái quá "- vồn vã vốn là đức tính của con buôn đối với khách hàng, chứ không phải của người giao hữu. Để tỏ rõ thái độ sử thế ấy, cha tôi có cho khắc đôi liễn treo bên tường trong phòng khách. Đôi liễn ấy là một đối trong cổ thi:
Tĩnh tọa thanh đàm thế sự
Nhàn khan thiển thủy hành chu
Câu I nghĩa là: ngồi để lòng bình tĩnh mà bàn xuông những chuyện đời (nếu không bình thản thì lòng đầy căm phẫn dễ "nổi cơn" lắm)
Câu I I nghĩa là: thừa lúc nhàn rỗi ngắm nhìn những con thuyền đi trên dòng nước nông (những con thuyền này đi lại dễ dàng.
Giả thử ở vào chỗ sâu gió to, sóng cả, tất sẽ phải vất vả chèo chống. Nhưng có rất nhiều người thích mạo hiểm, thử thách vì lòng chứa chất dục vọng; cho nên quan niệm nhàn ở đây là "thắng kỷ", đè nén được dục vọng của mình để giữ cho mình thanh cao và khỏi hiểm họa).
Nói trên, đó là thứ "không khí" trong phòng khách của ông cha ta xưa, đạm bạc, tri túc, thủ lễ với tất cả mọi người. Cái trường kỷ là vật dụng duy trì cái tác phong ấy, cho con người thẳng lưng. lòng ngay, và bình đẳng. Nó phải cứng và đủ chiều cao cho dóng chân người ngồi được ngay ngắn. Nhưng ngày nay, nếu cái trường kỷ ấy, tôi mang được sang đây, thì ngoài giá trị cổ vật, nó cũng không còn có giá trị gì khác nữa. Bởi nó đã được những bộ salon rất êm, rất ấm thay thế. Con người hôm nay và ở xứ này tâm lý đã khác. Họ thích ồn ào, họ thích nhanh nhẩu, họ nói không lựa lời, họ không sợ mất lòng ai. Cái đó cũng là những đức tính đáng ca ngợi, nhưng nếu buông thả thái quá, e những đức tính tốt đẹp ấy sẽ bị mất đi một cách đáng tiếc.
Thử xem cách thức họ ngồi xuống chiếc sofa, thật khác xa với cách thức của ông cha chúng ta ngồi trên chiếc trường kỷ. Họ thả người xuống nệm ghế và vừa khi mông chạm tới nệm thì lưng họ ngả ra sau và chân bung xoài ra phía trước, có khi chân đặt hẳn lên chiếc bàn trà (coffee table) cho đế giầy chiếu thẳng vào người phía trước chẳng kể người đó là khách, là bạn hay là bố là mẹ.. . Kiểu ngả ngớn như vậy ngồi không phải ngồi, nằm chẳng ra nằm, nếu lấy chữ "ngồi nằm" để hình dung thì cũng chỉ hình dung được một giai đoạn vì họ "ngồi nằm" như thế cũng chẳng yên, còn vẹo bên phải, quay bên trái, chiếc lưng quần tụt xuống để phơi cả ông Đỗ (bụng), ông Tề (rốn).
Thành thử ra Trường kỷ và Sofa, hai vật dụng cùng dùng để ngồi, nhưng cách cấu tạo lại nhằm hai mục tiêu khác nhau và hai mục tiêu khác nhau ấy cũng tiêu biểu cho hai thứ văn hóa, một nghiêng về tinh thần và một nghiêng về vật chất.
Cũng trong chiều hướng ấy tôi nhớ lại cả những chiếc giường nằm của tiền nhân chúng ta. Giở những cuốn sách xưa như cuốn La connaissance du Viet Nam, ta thấy có in hình ảnh chiếc chõng tre, bộ ván nằm, chiếc sập chân quỳ.. . Tất cả những thứ để ông cha chúng ta đặt lưng nghỉ ngơi hay đánh giấc qua đêm đều làm bằng tre, bằng gỗ cả và lẽ dĩ nhiên chúng cũng cứng như gỗ, như tre, đâu có mềm, êm bằng đệm "mousse", đệm "lò xo", nhún "giường Hong Kong".
Về giường tre hay chõng tre, tôi chưa từng thấy có chõng tre (2 người nằm). Nhưng còn bộ ngựa hay bộ ván và sập thì hoàn toàn rộng từ 1 chiếu trở lên. Bộ ngựa có khi gọi là bộ phản (câu đố Việt: Ngửa lưng cho thế gian nhờ, chẳng thương thì chớ lại ngờ bất trung) là những tấm gỗ dầy độ một, hai phân anh và dài độ 5 bộ xếp liền nhau, kê trên 2 chiếc chân ngựa. Nhưng nhiều gia đình có những bộ ván bằng gỗ quý (gụ, giáng-hương...) dày cả một gang tay và rộng tới 2 tấm 1 chiếu (2 tấm xếp liền nhau rộng bằng 1 chiếc chiếu). Những tấm ván này tất phải xẻ từ những cây cổ thụ hàng 100 năm trở lên, đều là những của truyền tử trong gia đình. Còn sập thì tuy cũng bằng gỗ quý nhưng không dày như bộ phản. Giá trị của sập là ở chỗ chạm trổ chung quanh, xuống tận bốn chân sập. Chân sập sở dĩ gọi là chân quỳ vì chạm theo chân một giống thú trong truyền thuyết xưa, giống rồng chân có vẩy và vuốt như vuốt cọp. Suốt cả một thời kỳ từ khi cuốn rơm nằm ngủ hay trải rơm trên đất nện nghỉ ngơi, qua giai đoạn đan tre chẻ lạt để làm những chiếc chõng, tới giai đoạn chặt cây, xẻ gỗ sắp xếp nên bộ ván, bộ ngựa, ông cha ta thực đã có đủ kinh nghiệm về "việc ngả lưng". Tôi lại tin chắc các vật dụng trên không có ghi dấu vết gì ảnh hưởng của Trung Hoa: chẳng hạn, chõng tre của Trung Hoa không dùng thanh tre đặt dọc theo chiều dài của chiếc chõng, mà lại đan tréo. Khi chúng ta có sập chân qùy với những hoa văn điêu khắc riêng biệt, thì bên Trung hoa là thời đại của nhưng chiếc "Quý Phi Sàng" -giường Quý Phi- tức là chiếc giường có ba vách cao chạm lọng; cũng có những chiếc giường với ba mặt vách gắn gương (để làm gì? chắc không phải để soi và chải tóc). Các cặp vợ chồng và các vị đệ tử của Phù Dung tiên tử đều mê thích những kiểu giường này vì kín gió.
Trở lại giường Việt Nam ta, ông cha chúng ta cũng đã trải qua những giai đoạn nằm rơm, ôm rơm, nằm võng, nằm nệm lông (lông vịt...) nằm gối bông, không lẽ lại không biết thế nào là ấm, là êm. Vậy mà sao vẫn quý trọng, khi ngồi, bộ trường kỷ, khi nằm, bộ phản hay sập chân quỳ. Đó có phải là ông cha ta đã nhận thức được: ngoài phương diện duy trì lễ độ, nhân cách, còn phương diện điều dưỡng sinh lý, bảo lưu sức khỏe, bằng cách ngồi cho ngay, nằm cho thẳng và thoáng mát không bị hấp mồ hôi.
Những bộ sofa, như đã nói trên, chỉ cung cấp được cho ta những sự nuông chiều về thể xác, những tấm đệm giường hiện đại lại càng hữu hiệu trong việc cung cấp thêm cho chúng ta phương diện lười biếng và trì trệ.
Giường to, giường nhỏ, giường độc thân, giường đôi, giường "hoàng hậu", giường "đế vương" chỉ là những tên gọi những sản phẩm theo giá trị của đồng "dollar". Càng nhiều tiền, nệm càng to, nhún lò xo càng nhiều, lớp "mousse" càng dầy, lớp vải càng mịn, càng mát. Người vào nằm đặt mình ngồi xuống, trọng lượng toàn thân làm cho tấm nệm lún xuống, đến khi ngửa người ra, phần trọng lượng phân tán, nặng chuyển về phần lưng làm cho lớp lò xo bớt sức ép, bộ mông được hất lên motä cách thoải mái nhẹ nhàng. Như thế còn gì sướng cho bằng nữa, nên cứ lăn qua, lăn lại, duỗi chân, duỗi tay rồi... nhập mộng. Kịp đến khi các bác sĩ, các khoa học gia, sau những năm khảo nghiệm về các bệnh liên quan đến giàn xương sống, bộ xương chậu, bộ xương cổ cùng các hệ thần kinh... loan báo rằng: "những giường quá mềm, không mấy tốt", tức thì lại nẩy sinh ra những đệm có danh từ "cứng" (firm), "cứng nhiều" (ultra firm) rồi đến giường chỉnh hình (posturepedic, backsaver...).
Nhưng dù sao chăng nữa, giường Mỹ vẫn là giường Mỹ. Các bác sĩ, khoa học gia, càng nhiều khám phá về giấc ngủ, về thế nằm, ngồi, thì càng nhiều kiểu ghế, kiểu giường lạ ra đời, tạo thêm cơ hội làm giàu cho những người Mỹ tháo vát và cơ hội tiêu tiền cho người ưa thử nghiệm. Ghế và giường tung ra thị trường không nhằm đáp ứng công lao nghiên cứu và mục đích duy trì sức khỏe, mà lại nhằm vào nhược điểm ưa lạ, ưa thử thách của con người. Cho nên không kể từ lâu đã có giường nước, nệm hơi, nay lại thêm ghế tẩm quất và những kiểu giường điện có thể uốn thành hình chữ S (craftmatic adjustable). Tất cả đều mang những nhãn hiệu quyến rũ của Đan Mạch, Ý Đại Lợi, Ậu Châu v.v... bằng những kim loại chế biến thay thế cho gỗ... để ai muốn nằm trên ghế và ngồi trên giường đều được cả.
Dở tự điển Trung Hoa, tôi chưa thấy có chữ Ngọa kỷ và Tọa sàng (ghế nằm và giường ngồi), nhưng nếu bây giờ có thêm vô, thiết tưởng cũng không đến nỗi vô nghĩa. Chúng ta đang trên đà tiến bộ mà! Giờ tôi xin phép quý vị đi ngồi nằm đây, tôi ra "couch" ngả cho tiện.
Cố GS Nguyễn Đức Hiển